22/5/09

Giá sữa ở Việt Nam đắt nhất thế giới, vì sao?

Giá sữa trong nước đang diễn tiến theo chiều ngược với thị trường thế giới. Các nhà sản xuất và cung ứng không có sự cạnh tranh giảm giá nào, và định giá sữa dựa trên nhận thức của người tiêu dùng

Các bậc phụ huynh phải chấp nhận mua sữa với giá cao, một phần do tin rằng sữa làm con em mình thông thái hơn (?).

Giá bán lẻ sữa ở Việt Nam đang ở mức cao nhất thế giới: giá bán lẻ trung bình là 1,4 USD/lít, trong khi Trung Quốc là 1,1 USD, Ấn Độ: 0,5 USD, các nước Âu - Mỹ từ 0,5-0,9 USD/lít. Hiện giá sữa ở Việt Nam cao gấp đôi Malaysia và gấp 1,5 lần so với Thái Lan. Đó là thông tin từ hội thảo về chất lượng sữa do hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vừa qua. Hội đang đề nghị đưa sản phẩm sữa vào danh mục các mặt hàng được Nhà nước bình ổn giá, kiểm soát giá.

Giá thế giới giảm, giá trong nước tăng

Sự bất hợp lý trong tiêu dùng sữa của thị trường Việt Nam thể hiện ở chỗ người tiêu dùng phải trả số tiền lớn hơn để mua sữa trong khi thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam lại thấp so với thế giới. Theo ông Hồ Tất Thắng, phó chủ tịch hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam, từ năm 2007 đến nay, giá sữa ở trong nước liên tục tăng, trong khi thuế và giá sữa thế giới lại giảm. Ghi nhận từ thị trường, vào lúc cao điểm giá sữa nguyên liệu lên đến trên 5.000USD/tấn (từ giữa đến cuối qúi 3.2008), người tiêu dùng đã phải chịu mua sữa giá cao gọi là để chia sẻ khó khăn (về đầu vào) với doanh nghiệp. Khi giá sữa nguyên liệu giảm từ các tháng cuối 2008 đến nay, các nhãn sữa trên thị trường cũng không giảm giá, mà lại tiếp tục tăng! Hiện nay, giá sữa trên thị trường thế giới ở đã giảm hơn 40% so với cao điểm. Một thuận lợi khác cho sữa nhập khẩu, là chính phủ đã giảm thuế từ 30% xuống còn 7%. Nhưng giá bán sữa cứ tăng!

Ngay cả sữa tươi dùng nguyên liệu trong nước, người tiêu dùng cũng gánh chịu giá cao. Như 1 lít sữa tươi 100% nguyên chất (làm từ sữa bò của nông dân), giá bán lẻ của các công ty sữa có thể lên đến 23.400-23.610 đồng, gấp gần 4 lần so với giá mua của nông dân chỉ khoảng 6.500- 7.000 đồng.

Giá một kg sữa đạt chuẩn về hạm lượng đạm, béo, đường và có bổ sung đầy đủ các khoáng chất, vitamin, DHA, Prebiotic… theo tiêu chuẩn của FAO/ WHO không quá 70.000đ. Nếu cộng thêm bao bì khoảng 7.000 - 8.000đ/lon thiếc, các khoản thuế và chi phí khác cho kinh doanh thì bán trên 100.000đ/kg là các công ty đã có lãi.

Theo mức giá trên thị trường hiện nay mà một công ty sản xuất sữa vừa mua hàng vào đầu tháng 3.2009, giá sữa nguyên liệu đạt chuẩn nhập từ các nhà cung cấp bán cho các tập đoàn toàn cầu vào khoảng 55.000đ/kg (đã có thuế). Trong các chất bổ sung, mắc nhất là DHA khoảng 80USD/kg, calcium khoảng 7 USD/kg, vitamine tổng hợp (6- 10USD/kg)… Tính trên giá thành, mỗi kg sữa có bổ sung tối đa các thành phần theo công thức tốt nhất mà các hãng sữa nêu, thậm chí có bổ sung DHA đến 4-5 lần, thì giá cũng chỉ vào khoảng 70.000đ/kg (bổ sung DHA lên gấp 4 lần, giá chỉ có thể tăng thêm khoảng 4.000đ/kg sữa bột).

Thế nhưng hiện nay người tiêu dùng phải trả từ 143.000 - 165.000đ/kg cho sữa sản xuất trong nước và từ 305.000 - 425.000đ/kg cho sữa nhập khẩu "cao cấp" để mua niềm tin vào sự ảo tưởng bé sẽ khoẻ hơn, sẽ cao hơn, sẽ ít bệnh hơn…

Ông Phạm Ngọc Châu, phó tổng giám đốc công ty Hancofood, chi phí xăng dầu tăng làm đội chi phí một chuyến xe tải chở hàng chỉ khoảng 10%, tức mỗi thùng sữa 24 lon chỉ tăng thêm khoảng 2.000 đồng. Với mức lợi nhuận bình quân là 30%, còn sữa “hiệu”, sữa “cao cấp” lên đến trên 60%, áp lực chi phí tăng giá xăng dầu, bao bì chỉ tác động rất nhỏ đối với nhà sản xuất sữa.

Càng tiếp thị, sữa càng đắt

Có 3 phân khúc thị trường sữa: giá trung bình, giá ở mức khá và giá cao cấp. Ba phân khúc này chia người tiêu dùng thành những nhóm tiêu thụ khác nhau, bao gồm: nhóm trung bình chuyên tiêu dùng các nhãn hiệu như Dutch Lady thường, Nestlé, Dielac, Nuti…; nhóm khá: Friso, Abbott IQ, Enfa thường…; và nhóm thu nhập cao: Friso Gold, Dumex Gold, GainPlus, Enfa Gold A++...

Sự khác biệt giữa dòng sữa trung bình với khá là sữa có tăng cường thêm một số thành phần bổ sung như DHA, ARA, Taurin, Cholin…Dòng sữa cao cấp thể hiện khác với dòng sữa dành cho thu nhập khá ở chữ Gold, ở các A++… với các thành phần bổ sung có nhiều chất hơn, hàm lượng các chất tăng cao hơn.

Về phương diện tiếp thị, ông Trần Hữu Đức, phụ trách đối ngoại công ty Nutifood nhìn nhận: sữa ngoại tạo được nét khác biệt cho sản phẩm để làm PR, tiếp thị mà các hãng sữa Việt Nam chưa có kinh nghiệm. Chẳng hạn các nhãn hiệu sữa ngoại thường tổ chức các quảng cáo, hội thảo khoa học với sự có mặt của các bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ Việt Nam và thế giới, tạo tâm lý tác động đến phụ huynh - người tiêu dùng. Và niềm tin vào sự thông minh của con em khi dùng sữa cao cấp đã thuyết phục các bậc cha mẹ dốc túi chi tiêu, góp phần làm giá sữa tại Việt Nam... cao nhất thế giới.

"Làm giá" sữa từ nhận thức của người tiêu dùng

Sữa ở Việt Nam có giá đắt không chỉ do Việt Nam phải nhập nguyên liệu, và do biến động tỉ giá USD làm tăng giá sữa, mà nguyên nhân chính là thị trường đang bị các nhãn sữa ngoại chiếm thị phần áp đảo. Số liệu từ các công ty nghiên cứu thị trường ước tính, thị trường sữa bột Việt Nam năm 2008 có qui mô khoảng 8.000 tỉ đồng, nhưng trong đó 7.000 tỉ thuộc về các nhãn hiệu ngoại nhập và công ty nước ngoài. Trong 20% thị phần ít ỏi còn lại, Vinamilk chiếm 15%, các nhà sản xuất sữa khác của Việt Nam chiếm 5%. Sữa đang nằm trong nhóm tiêu dùng thiết yếu, lượng tiêu thụ trong giai đoạn sức mua giảm toàn thị trường vẫn đạt tăng trưởng từ 8 - 12% (đo qua kênh siêu thị).

Các nhà kinh doanh sữa ở Việt Nam chưa hề có cuộc cạnh tranh kéo giá xuống để mang lại lợi ích cho người mua. Phân tích kỹ về cách kinh doanh của các hãng sữa, có thể thấy hầu hết đều chạy theo cuộc đua cạnh tranh về thương hiệu bằng cách thêm chất này, chất kia vào sữa để lôi kéo người tiêu dùng chạy theo. Chẳng hạn như sữa D vừa tung ra loại chứa 28 vitamin, sữa N tung ra loại 32 vitamin, và mới đây sữa X tung ra loại 54 vitamin. Tương tự, DHA của hãng M tăng gấp 4 lần, lập tức DHA trong sữa của D tăng đến 5 lần…

Ông Trần Bảo Minh, phó tổng giám đốc công ty Vinamilk phát biểu: "Chiến lược giá của sản phẩm sữa hiện nay không theo công thức giá bán = giá thành sản xuất + chi phí phân phối + chi phí kinh doanh khác…, mà giá sữa được định theo từng nhóm đẳng cấp, các hãng sữa đo nhận thức của người tiêu dùng về thương hiệu để định ra giá bán. Xu hướng chung là sữa càng mắc, càng cao cấp thì càng dễ làm thương hiệu để bán.”

Theo ông Trần Ngọc Dũng, chuyên viên nghiên cứu thị trường của công ty nghiên cứu thị trường FTA, các phân tích và nghiên cứu thói quen tiêu dùng tại Việt Nam trong năm 2007- 2008 cho thấy: các bà mẹ dù thuộc loại thu nhập nào cũng đều có khuynh hướng chọn sữa đắt tiền được quảng cáo có bổ sung nhiều dưỡng chất bổ sung cho con, vì họ tin sữa đắt tiền sẽ giúp con họ thông minh, khỏe mạnh.

Nghiên cứu của FTA chỉ ra rằng, tuy tất cả các nguyên liệu sữa của các nhãn hiệu sữa dành cho trẻ em đang bán ở Việt Nam đều nhập khẩu từ các nguồn New Zealand, Úc, Hà Lan…với thành phần trong sữa gần như nhau, chất lượng thực sự giữa các nhãn hiệu sữa - thông qua thành phần được ghi trên bao bì - gần như tương đương, nhưng khoảng cách giá giữa sản phẩm sữa "cao cấp" với sản phẩm giá thấp cách xa nhau rất nhiều. Chính chất lượng mà người tiêu dùng “cảm nhận” thông qua bao bì, thương hiệu, quảng cáo và giá cả đã góp phần tạo nên khoảng cách lớn đó.
Giá sữa nguyên liệu thế giới ngày càng giảm

Đơn vị: đồng/kg, lấy giá sữa của châu Đại dương (tập đoàn Fonterra)

Thời gian
Tháng 1.2008 Tháng 4.2008 Tháng 7.2008 Tháng 12.2008 Tháng 3.2009
76.824 73.346 73.284 35.274 36.972

(Nguồn: Bloomberg)

B.Thảo

Paul Krugman: Điều tệ nhất có thể đã qua, nhưng hồi phục mất nhiều năm

Paul Krugman, nhà kinh tế đọat giải Nobel năm 2008, mới chỉ có mặt ở Việt Nam hơn 24 tiếng. Ông hầu như chưa nhìn thấy gì nhiều về Việt Nam, ngoài khách sạn Sheraton và phòng họp với gần 500 cử tọa, những người muốn nghe phân tích của ông về viễn cảnh kinh tế thế giới, những thay đổi mà suy thoái kinh tế đem lại cho mô hình tài chính, thương mại toàn cầu, và nhận định về Việt Nam. Krugman thẳng thắn nói rằng, ngay cả trong cuộc gặp đại diện chính phủ vào thứ sáu (22.5), ông sẽ đóng vai trò nhà báo, tìm hiểu tình hình hơn là đưa ra lời khuyên.

Giáo sư Paul Krugman, người đoạt giải Nobel Kinh tế 2008, thuyết trình tại hội thảo quốc tế "Tìm kiếm cơ hội và giải pháp trong khó khăn và khủng hoảng" do bộ Ngoại giao và tổ chức giáo dục PACE tổ chức trong ngày 21.5.2009 tại KS Sheraton, TP.HCM, thu hút trên 500 khán thính giả gồm doanh nhân ,nhà ngoại giao, đại diện lãnh sự các nước Anh, Mỹ, Úc ... (Ảnh: Lê Quang Nhật)

Giai đoạn tồi tệ nhất đã qua

Đánh giá về tình hình kinh tế Mỹ và thế giới, ông Krugman cho rằng giai đoạn tồi tệ nhất đã qua, nhưng hồi phục sẽ dài lâu, có thể mất ít nhất 5 năm. Tin xấu vẫn đầy rẫy, nhưng ít nhất tình hình ít xấu hơn, tốc độ suy giảm của các chỉ số kinh tế cũng chậm lại. Ở Mỹ, số liệu thất nghiệp tuy vẫn rất cao ở mức trên 500 ngàn người trong tháng gần nhất, nhưng đã thấp hơn mức trên 700 ngàn người của tháng trước đó. Những số liệu mới nhất cho thấy kim ngạch xuất khẩu của một số nước, trong đó có Trung Quốc, tăng nhẹ. “Tất cả cho thấy tình hình vẫn đang xấu đi nhưng tốc độ xấu đi đã chậm lại…. Tôi không nghĩlà chúng ta đang đối mặt với cuộc Đại suy thoái lần thứ hai.”

Không có nghĩa là thế giới sẽ chứng kiến một cuộc hồi phục nhanh chóng. Có rất ít dấu hiệu hồi phục, ở Mỹ cũng như những nền kinh tế lớn khác. Thế giới vẫn phải chịu đựng một đợt trì trệ “khổng lồ” từ cuộc khủng hỏang tài chính bắt đầu từ Mỹ. Ông Krugman cảnh báo về khả năng nước Mỹ đối mặt với tình trạng “một thập niên bị đánh mất của Nhật.” Nền kinh tế Nhật, sau khủng hoảng đầu thập niên 80, phải chịu đựng khoảng 10 năm gần như không có tăng trưởng. Hiện nay, tỷ lệ tiết kiệm của người Mỹ bắt đầu tăng. “Mọi người đều muốn tiêu ít hơn và dành dụm nhiều hơn” ông nói. Mặt trái của tình hình này là thiếu chi tiêu và đầu tư, thế giới sẽ tiếp tục trì trệ và không có lối thoát. Ông Krugman bày tỏ lo lắng về giảm phát nhiều hơn là lạm phát ở nước Mỹ. Lý do là ngân hàng đang dự trữ rất nhiều và không cho vay được. Tiền đang ngồi một chỗ, một phần vì thế giới vẫn đang thừa công suất, trong khi ít chi tiêu hơn, nên không có nhu cầu đầu tư hơn vào thời điểm này. Ông cho rằng giá trị đồng đô la Mỹ chắc chắn sẽ giảm khi tình hình kinh tế khả quan hơn, nhưng nước Mỹ cũng vẫn sẽ đối mặt với trì trệ, và điều này sẽ ảnh hưởng đến cả thế giới.

Thay đổi

Ông Krugman cho rằng đây là lúc những nước quá lệ thuộc vào thặng dư mậu dịch như Trung Quốc phải đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa. Trung Quốc đã ghìm giá đồng nhân dân tệ từ lâu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu. Nước Mỹ, hàng năm thường tìm ra những nước cố tình điều khiển tiền tệ để áp dụng các biện pháp cấm vận, đã không dám làm thế với Trung Quốc vì ngại chiến tranh thương mại. Nhưng Krugman nói thẳng rằng, điều này không thể tiếp diễn mãi được

Giáo sư Paul Krugman, người đoạt giải Nobel Kinh tế 2008.(Ảnh: Lê Quang Nhật)

Tuy vậy, Krugman tiếp tục ủng hộ tự do mậu dịch và toàn cầu hóa. Ông cho rằng xuất khẩu đã giúp các nước đang phát triển như Việt Nam và tiếp tục là sự lựa chọn tốt nhất. “Điều không còn dễ dàng tồn tại là thặng dư xuất khẩu quá lớn. Ngòai ra không có lý do nào để tin rằng mô hình xuất khẩu thúc đẩy tăng trưởng không còn ứng dụng được nữa.”

Krugman nhấn mạnh một trong những quan điểm chính mà ông liên tục đưa ra trong các bài báo của mình: Lĩnh vực tài chính cần phải được kiểm soát chặt chẽ hơn rất nhiều, để tránh những thảm họa như đã xảy ra với cuộc khủng hoảng tài chính vừa rồi. “Bất cứ những gì phải giải cứu trong giai đoạn khủng hoảng đều cần phải được điều chỉnh,” ông nói. Tình trạng đòn bẩy quá đà đặt ra yêu cầu phải có những quy định cụ thể về vốn. Các ngân hàng truyền thống không nên được phép tham gia vào quá nhiều loại kinh doanh khác nhau khó kiểm soát. Ngoài ra, việc điều chỉnh trong lĩnh vực tài chính phải được quốc tế hóa để tránh tình trạng giống như “thiên đàng thuế” ở Cayman, Virgin Islands… khi các công ty đổ xô đăng ký ở những nơi họ không bị kiểm soát.

Krugman cho biết ông hoàn toàn không có ý cho rằng mọi lĩnh vực kinh doanh phải được điều chỉnh giống như mô hình “kế hoạch hóa tập trung” của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Ông cho rằng nhu cầu điều chỉnh chủ yếu nhắm vào lĩnh vực tài chính, là lĩnh vực hết sức trọng yếu đối với sức khỏe của nền kinh tế.

Việt Nam

Không ít câu hỏi được đặt ra cho ông Krugman về khả năng lạm phát của Việt Nam nếu chính phủ bị sức ép kích cầu và in tiền quá nhiều. Ông Krugman nói ngay rằng in tiền không phải là giải pháp. Ông cho rằng Việt Nam hoàn toàn có thể chọn giải pháp vay, nhất là trong khi dự trữ tiền trên thế giới đang tăng như hiện nay. “Không nhất thiết phải in tiền, mà có thể vay tiền và sử dụng tiền vay một cách hiệu quả.” Ông cho rằng Mỹ đang vay nợ quá nhiều nên không có chỗ để sử dụng lựa chọn này. Nhưng khi biết rằng thâm hụt ngân sách của Việt Nam đang khá lớn, ông thừa nhận rằng như vậy Việt Nam không có nhiều lựa chọn lắm. “Không có câu trả lời dễ dàng cho tình huống này.”

Lan Anh

Quốc hội, bauxite Tây Nguyên và lòng dân

Công trường bauxite Tân Rai, Lâm Đồng. Ảnh: Trần Đức Tài

SGTT - Không rõ, chủ nhiệm văn phòng Quốc hội, ông Trần Đình Đàn, dựa trên cơ sở nào để nói rằng: “Chắc chắn Quốc hội sẽ hoàn toàn ủng hộ chủ trương khai thác bauxite”. Ở thời điểm ông Đàn tuyên bố, 18.5.2009, Quốc hội vẫn chưa khai mạc, Chính phủ chưa báo cáo và các đại biểu chưa thảo luận. Hơn hai tuần trước, ngày 4.5, khi tiếp xúc cử tri tại phường Giảng Võ, chủ tịch Nguyễn Phú Trọng cũng nói, Chính phủ sẽ dành “một phần trong Báo cáo về kinh tế xã hội” để đánh giá về bauxite. Để rồi, chiều 14.5, khi “Kết luận phiên họp UBTVQH” ông đã phải yêu cầu Chính phủ “chuẩn bị một báo cáo chuyên đề riêng về chủ trương khai thác bauxite Tây Nguyên”.

Như vậy, mặc dù Thủ tướng đã giao cho một số bộ, ngành đưa “bauxite Tây Nguyên” vào báo cáo chung. Và, khi nói với cử tri, có thể cá nhân chủ tịch Quốc hội cũng ủng hộ Thủ tướng cách làm này. Nhưng, ông vẫn phải kết luận như trên sau khi “một số đoàn đại biểu và các cơ quan của Quốc hội muốn có một báo cáo riêng về bauxite”.

Khác với những cơ quan nhà nước khác, “Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số” (điều 4, luật Tổ chức Quốc hội). Chủ nhiệm văn phòng Quốc hội và ngay cả chủ tịch Quốc hội cũng chỉ có mỗi người một phiếu và không ai có thể phát ngôn thay cho 493 đại biểu của dân. Trước đây, chủ tịch Nông Đức Mạnh đã thể hiện vai trò này một cách thành công khi ông, thay vì “kết luận” các phiên họp của uỷ ban Thường vụ hay của Quốc hội, đã tóm tắt các ý kiến thảo luận rồi “xin ý kiến”.

Trong bộ máy Nhà nước, có những thiết chế cần những cá nhân quyết đoán để ra mệnh lệnh, có những thiết chế cần sự dẫn dắt để ý kiến đa số có điều kiện hình thành. Cũng là một con người nhưng khi nhận lãnh “vai” nào thì phải hành xử đúng như những quy định về “vai” ấy đã được ghi trong Hiến pháp.

Có lẽ, vì Quốc hội có hơn 90% đảng viên nên ông Trần Đình Đàn tin “chắc chắn là Quốc hội sẽ hoàn toàn ủng hộ” sau khi nhấn mạnh khai thác bauxite đã thành “chủ trương của Đảng” và có “kết luận của bộ Chính trị”. Chưa nói về nguyên tắc “Đảng lãnh đạo nhưng không bao biện làm thay”, cách hiểu “Kết luận của bộ Chính trị” của một số tổ chức và cá nhân thời gian qua cho thấy cũng rất cần “quán triệt”.

“Chắc chắn Quốc hội sẽ hoàn toàn ủng hộ chủ trương khai thác bauxite”. Ở thời điểm ông Đàn, chủ nhiệm văn phòng Quốc hội, tuyên bố, 18.5.2009, Quốc hội vẫn chưa khai mạc, Chính phủ chưa báo cáo và các đại biểu chưa thảo luận

Bộ Chính trị nhấn mạnh “chỉ sử dụng lao động kỹ thuật nước ngoài khi cần thiết” vì có rất nhiều lao động phổ thông Trung Quốc xuất hiện trên công trình Tân Rai. Bộ Chính trị yêu cầu “lựa chọn công nghệ hiện đại” vì có nhiều băn khoăn về loại công nghệ đang được đưa vào Tây Nguyên; vì, nói là “thí điểm” mà cả hai dự án Nhân Cơ và Tân Rai đều chỉ sử dụng một nhà thầu là tập đoàn Chalco của Trung Quốc với cùng công nghệ.

Bộ Chính trị kết luận: “Riêng dự án Nhân Cơ, phải rà soát lại toàn bộ các vấn đề có liên quan, nhất là việc đánh giá hiệu quả kinh tế và tác động môi trường” là để khẳng định: “Nếu thực sự có hiệu quả và bảo đảm yêu cầu về bảo vệ môi trường thì mới tiếp tục triển khai thực hiện”, chứ không phải là đương nhiên triển khai thực hiện. Khi bộ Chính trị yêu cầu: “Ban cán sự Đảng Chính phủ chuẩn bị báo cáo với ban Chấp hành Trung ương và chỉ đạo việc chuẩn bị báo cáo Quốc hội”, là không chỉ muốn cung cấp thông tin mà còn đòi hỏi các cơ quan này phải phát huy vai trò kiểm tra, giám sát.

Trong buổi tiếp xúc cử tri hôm 4.5, chủ tịch Quốc hội cũng thừa nhận, “không chỉ cử tri Hà Nội mà trong chuyến đi công tác nước ngoài vừa qua, rất nhiều kiều bào cũng quan tâm đến việc Quốc hội phải giám sát dự án bauxite Tây Nguyên”. Không riêng Chủ tịch Nguyễn Phú Trọng nghe được đòi hỏi ấy của người dân Việt Nam, các đại biểu Quốc hội về Hà Nội trong kỳ họp này chắc chắn cũng đã được cử tri của mình gửi gắm. Với những chủ trương liên quan không những tới môi trường mà còn là “an ninh quốc gia” như khai thác bauxite ở Tây Nguyên thì vấn đề không chỉ là “quy mô, tầm cỡ của dự án” ở mức một tỉ hay “600 triệu đô la” mà là “lòng dân” mới là yếu tố quan trọng nhất để Quốc hội đặt lên bàn nghị sự.

Huy Đức

Sống chung với hàng Trung Quốc?

SGTT - Trung Quốc là nhà máy của toàn thế giới và hàng Trung Quốc có mặt khắp các châu lục. Chúng ta chắc chắn sẽ còn sống chung với hàng Trung Quốc và việc hợp tác kinh tế với họ, qua lại với họ về sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ là điều không thể tránh khỏi. Song đó là một chiến lược lớn cần đề cập căn cơ, quan niệm tỉnh táo và có tầm nhìn, định hướng lâu dài, hai bên cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng nhau chứ không được áp đặt, lấn lướt giành phần khôn, phần lợi về mình.

Một chiến lược giao thương và hợp tác kinh tế với Trung Quốc trong tình hình mới hiện nay cần được bàn luận trong toàn dân để Nhà nước trên cơ sở đó mà có quyết sách hợp lòng dân. Khi có quyết sách hợp lòng dân thì Nhà nước ta mới đủ sức mạnh đàm phán và làm ăn với anh bạn lớn, đủ sức đương đầu vượt qua những lá lay, lấn lướt thường thấy lâu nay.

Riêng về vấn đề “nhà nhà đánh hàng, bán hàng Trung Quốc” hiện đang xảy ra thì theo tôi có hai biện pháp cần quan tâm sớm:

1. Doanh nghiệp Việt Nam, người tiêu dùng Việt Nam cần có đầy đủ thông tin về đối sách Trung Quốc đang sử dụng cho thị trường Việt Nam, về chiến lược lâu dài cũng như các sách lược, các chiêu thức, kỹ xảo của Trung Quốc đang áp dụng cho Việt Nam.

Họ có đội ngũ nghiên cứu giỏi, được trang cấp mọi phương tiện và có nhiều kênh thông tin cấp thời, hiệu quả cho doanh nghiệp. Một công ty dệt may vừa đi mua nguyên phụ liệu ở Trung Quốc kể rằng đã bị nhiều nhà bán lẻ Trung Quốc chặn hỏi, phải chăng Nhà nước Việt Nam đang có chiến dịch đưa hàng dệt may Việt Nam về tranh chỗ của hàng dệt may Trung Quốc ở nông thôn Việt?

Trung Quốc hiện tiến hành một cuộc xâm nhập có tính chất toàn diện đối với Việt Nam (kinh tế, chính trị, đầu tư, thương mại, xã hội, văn hoá…) và những chính sách, biện pháp cụ thể là gì? Nhiều điều khoản bất công trong giao thương với đối tác nước ngoài, trong đó có Việt Nam đã được chính báo chí Trung Quốc bức xúc công khai nhưng các thông tin này hoàn toàn bị bưng bít đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam. Các cơ quan chức năng Việt Nam có nắm rõ không các điều khoản bất công này để tư vấn cho doanh nghiệp mình?

Khi nhiều hãng buôn Trung Quốc đồng loạt mở mặt trận tuyên truyền về mọi sự thuận lợi, dễ dàng, hiệu quả để buôn hàng Trung Quốc thì thông tin về những cú lừa đảo hàng chục tỉ đồng của giới thương buôn Trung Quốc với mặt hàng nguyên liệu may mặc, điện tử làm điêu đứng các siêu thị tên tuổi của Việt Nam, các công ty dệt may lớn của Việt Nam lại bị che giấu kỹ. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam nhập máy móc Trung Quốc, nhập nhầm rác thải công nghệ, thiết bị lạc hậu đành ôm hận trùm mền, và các sự việc này không được thông tin khiến nhiều công ty khác tiếp tục vướng bẫy. Nhiều nhà buôn Việt Nam nhắm mắt tiếp tục nhập khẩu hàng hoá của những hãng Trung Quốc bị cảnh báo về vệ sinh an toàn thực phẩm đã không được thông tin rộng rãi cho người tiêu dùng Việt Nam, đến đỗi báo chí Trung Quốc phải lên tiếng về những sự bất công, mập mờ mưu lợi bất chính của doanh nghiệp Trung Quốc với các đối tác nước ngoài.

2. Giành lấy chủ quyền thương mại trên thị trường đất nước mình.

Báo chí cần nêu đích danh những cơ quan chức năng nào “nối giáo” cho kẻ ngang nhiên gian lận thương mại, ăn cắp thị trường và thị phần của doanh nghiệp Việt Nam

Vào thời buổi Nhà nước Trung Quốc hô hào các nhà kinh doanh Trung Quốc phải quan tâm hơn tới thị trường nội địa của họ, cũng như các quốc gia khác đều phải chú trọng tăng cầu nội địa để đối phó khủng hoảng, thì không thể chấp nhận những chiêu thức gian lận thương mại, không chính đáng, không hợp pháp để hàng Trung Quốc giành lấy phần của hàng Việt Nam trên thị trường Việt Nam. Họ đang ra sức đẩy hàng dội khẩu sang các nước lân cận, họ chẳng giấu giếm gì và ta cũng biết thừa. Nhưng cùng với việc gia tăng các hàng rào kỹ thuật đối với hàng Việt Nam, gây khó khăn đủ điều cho việc nhập hàng Việt Nam thì họ khuyến khích, dung túng mọi hình thức đi buôn hàng Trung Quốc không đóng thuế, không chính ngạch, chuyển ngân cũng không đóng thuế.

Khi họ công bố cấm tàu đánh cá Việt Nam đánh cá trên vùng biển của Việt Nam, sao họ có thể đẩy hàng lậu và hàng giả ồ ạt sang ta? Tất nhiên muốn hàng lậu và hàng giả ngon trớn vào Việt Nam thì phải có sự hợp lực của phía họ lẫn cơ quan chức năng của mình. Biên giới dài rộng, một gánh hàng của ta vào họ không lọt nhưng hàng tấn tấn hàng của họ vào ta ngon ơ, vì sao? Vì sao mà doanh nghiệp Việt Nam ngay tại thành phố này, chỉ mới trưng bảng giảm giá 70% đã tức thì bị quản lý thị trường lập biên bản phạt tội bán phá giá (than ôi thời buổi bị hàng Trung Quốc áp sát, giảm giá tới 70% còn chưa “xi nhê”) mà cả một khu chợ tưng bừng giữa quận 1 Sài Gòn bán toàn đồ giả nhập từ Trung Quốc, mỗi ngày huỷ hoại sức cạnh tranh của biết bao doanh nghiệp may mặc lương thiện của Việt Nam, cứ nhơn nhơn phát triển?

Với tất cả hàng bán dưới giá thành bình thường, cơ quan chức năng cứ truy hỏi nguồn gốc, hoá đơn là thấy ngay xuất xứ hàng hoá và dễ xử quá chừng, sao không làm được? Hãy truy hỏi công bằng như đối với mọi doanh nghiệp Việt Nam có trưng bảng kinh doanh đàng hoàng, đầu tư thương hiệu nghiêm túc, để có được một cuộc cạnh tranh ngang bằng, không cần thiên vị chút nào với doanh nghiệp trong nước.

Chúng ta biết là giữa hội chợ Quảng Châu, hàng đẹp như mơ không có nhãn mác được bày bán công khai. Hỏi vì sao, họ nói, họ chờ người mua yêu cầu nhãn gì thì gắn nhãn đó. Made in Vietnam đầy dẫy. Họ cũng hướng dẫn, và cung cấp luôn dịch vụ chuyển hàng qua Singapore, Hong Kong, Malaysia để xoá hẵn gốc Trung Quốc.

Thực tế là hàng Trung Quốc, nếu nhập chính ngạch, vào siêu thị hay cửa hàng lớn của Việt Nam thì giá đắt hơn hàng Việt Nam cùng đẳng cấp. Họ phải cạnh tranh ngang bằng như vậy, không thể ngang ngạnh cấm người ta đánh cá trên biển người ta mà lại thản nhiên đẩy hàng lậu, hàng giả vào thị trường người ta không xấu hổ.

Báo chí cần nêu đích danh những cơ quan chức năng nào “nối giáo” cho kẻ ngang nhiên gian lận thương mại, ăn cắp thị trường và thị phần của doanh nghiệp Việt Nam.

Trên đây là hai giải pháp nhất thời. Còn chuyện “chiến đấu” công bằng với quyền lực mềm, cuộc chiến mềm với hàng lậu và hàng giả Trung Quốc, làm sao hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam trong hợp tác và cạnh tranh với hàng Trung Quốc về lâu dài là một câu chuyện dài. Chuyện dài nhưng đã bức bách như lửa cháy phừng phừng. Ngày càng nhiều doanh nghiệp Việt Nam đành lòng nhắm mắt chọn giải pháp đóng máy, cho thợ tạm nghỉ, đưa hàng sang gia công bên Tàu về bán, lời hơn và thị trường Việt Nam ngày càng cam tâm là nơi ưu tiên tiêu thụ hàng Trung Quốc. Lửa cháy vậy mà cơ quan chức năng nguội lạnh, doanh nghiệp thì rời rạc, loay hoay tìm lối thoát. Đó cũng là câu chuyện lớn rất thực tế về sự tồn tại của nền kinh tế Việt Nam.

Kim Hạnh

1/3/09

Thiết lập mục tiêu - Bí quyết đi tới thành công


Mục tiêu và ước mơ không phải là những điều tầm thường. Chúng là nơi chứa đựng những món quà, niềm say mê và nghị lực sống. Cho dù đó là hành động trượt băng tại Thế vận hội, hát trong dàn đồng ca, tu sửa lại phòng tắm hay biểu diễn một vở hài kịch thì bạn cũng dễ dàng thành công khi mục tiêu được xác định một cách rõ ràng.

Để đạt được những thành quả mới bạn nên thực hiện theo các bước sau:

- Hãy biết mơ ước: Bạn muốn làm, muốn nhìn thấy, đạt tới và trải nghiệm những gì? Hãy nhìn rộng ra xung quanh trong khi bạn "hâm nóng" cuộc sống và những giá trị bản thân bao gồm cả sự nghiệp, sự khéo léo, những thành tích về thể chất, tài chính, học hành và những dịch vụ công cộng.

- Suy nghĩ nhiều hơn về những mục tiêu cá nhân: Bạn muốn cảm thấy như thế nào? Bạn có muốn có một gia đình? Sinh một đứa con khỏe mạnh? Bạn sẽ cưới người mình yêu nhất để cùng chung tay xây dựng cuộc sống? Bạn có muốn thay đổi suy nghĩ của mình hay cách cư xử với mọi người? Bạn có muốn phát triển một mối quan hệ nào không? Hãy thành thực!

- Cân nhắc và chọn những mục đích cần thiết cho đến khi chúng thể hiện được những điều bạn muốn.

- Đặt mục đích cho cuộc đời mình. Sau đó là kế hoạch cho 10 năm sau, 5 năm, 1 năm và cho 1 tháng tới kể từ bây giờ rồi thực hiện lần lượt theo mức độ ưu tiên.

- Chia từng mục tiêu lớn thành những nhiệm vụ cụ thể và thời hạn hoàn thành. Ví dụ, nếu là mục tiêu về tài chính phải xoá nợ trong vòng 2 năm, bạn phải quyết định để dành, tiêu ít hơn số tiền bạn kiếm được. Hãy tính thời gian hoàn thành và sắp xếp mức độ ưu tiên cho từng đầu việc nhỏ.

- Vạch kế hoạch cho cả những việc phải làm hàng ngày. Điều đó hỗ trợ bạn trong việc hoàn thành được mục tiêu trong cuộc sống. Bây giờ bạn có thể chia nhỏ nhiệm vụ, kết hợp với những việc khác trong danh mục đã liệt kê nếu thấy hợp lý và thực hiện chúng.

- Thường xuyên xem xét lại và sắp xếp lại mức độ ưu tiên khi bạn thấy cần thiết. Bạn phải thấy rằng mọi thứ có thể thay đổi theo thời gian hoặc một việc nào đó sẽ phải tạm thời dừng lại khi bạn làm những việc khác.

- Phải nghĩ rằng những mục tiêu sẽ ảnh hưởng đến những sở thích của bạn. Bạn sẽ phải kết hợp mọi việc với nhau. Nếu bạn có con, hãy sắp xếp kỹ lưỡng và cân nhắc lại mọi việc. Nếu như để thực hiện một việc mất nhiều thời gian và bạn chỉ có giải pháp là làm việc bán thời gian bạn hãy thuyết phục các thành viên trong gia đình giúp đỡ để mình có nhiều thời gian hơn. Bạn có thể sẽ rất ngạc nhiên về kết quả.

- Biến những kế hoạch của bạn thành hành động. Bạn đã thực hiện được gần như hoàn tất mục tiêu đặt ra.

Tập trung vào quá trình hành động và tự thưởng cho mình mỗi khi đạt được những gì bạn muốn, dù chỉ là một sự để tâm đến thành công đó.

Lời khuyên và cảnh báo

- Không đặt những mục đích đó lên quá cao và cũng cần thận trọng không nên coi thường chúng. Tập trung vào những mục tiêu có thể đạt được. Khi bạn hoàn thành 1 mục tiêu, bạn sẽ có động lực để đạt được những đích tiếp theo.

- Tự thưởng cho mình không chỉ là giải thưởng cho thứ đạt được mà đó còn là sự khuyến khích để bạn tiếp tục trên con đường đi chinh phục mục tiêu cuối cùng.

- Khi bạn viết ra được những mục tiêu của mình, hãy chú ý cách dùng từ. Thay vì viết "Tôi nên..." và "Tôi sẽ cố gắng...", bạn hãy nhấn mạnh bằng câu "Tôi sẽ...".

- Nếu bạn gặp khó khăn khi thực hiện một mục tiêu nào đó, hãy tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của nó. Bạn nên học hỏi kinh nghiệm và sắp xếp lại mức độ ưu tiên giữa các mục tiêu hoặc nếu thấy quá sức, bạn hãy chuyển sang một mục tiêu khác.

- Chú ý khi đặt mục tiêu cho mình, bởi kết quả sẽ ảnh hưởng đến những người kỳ vọng vào bạn như bố mẹ, sếp hoặc những người có ý nghĩa đối với bạn. MT
Theo Ehow

Kế hoạch 100 ngày


Bản kế hoạch 100 ngày làm việc đầu tiên sẽ rất cần thiết cho những người bắt đầu một công việc mới.
Nếu kế hoạch được thực hiện nghiêm túc, nó sẽ tạo ra những tác động mạnh mẽ bất ngờ.

Khi Rebecca Paddock chuyển từ công việc của một kỹ sư kiểm định sang kỹ sư hệ thống, cô đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Paddock lấy ý tưởng từ kế hoạch 100 ngày làm việc đầu tiên của các tổng thống Mỹ mới nhậm chức để lập cho mình một danh sách công việc phải làm.

“Tôi đã viết kế hoạch tổng thể với các bước thực hiện bắt đầu từ công việc chuẩn bị phỏng vấn. Đến khi được tuyển dụng, tôi tiếp tục triển khai kế hoạch này một cách chi tiết hơn”, Paddock - người hiện là giám đốc dự án ở công ty Plano có trụ sở ở bang Texas (Mỹ) và là người chịu trách nhiệm về dự án Six Sigma ở Raytheon Co. - cho biết.

Thực ra, không phải chỉ những tổng thống Mỹ mới cần vạch ra một kế hoạch 100 ngày đầu của mình ở Nhà Trắng mà tất cả những ai khi bắt đầu một công việc mới đều phải có một danh sách các mục tiêu cần đạt được trong những tháng làm việc đầu tiên. Nhiều người chọn kế hoạch ba tháng (90 ngày) hay ba tháng và mười ngày (100 ngày) nhưng đều phải dựa trên năm nguyên tắc chính sau đây.

1. Đánh giá tình hình

Thông thường, các ông chủ muốn nhân viên mới mang lại điều gì đó mới mẻ và có giá trị cho công ty. Nếu hoạt động có liên quan đến công nghệ thông tin của công ty đang vận hành tốt, các ông chủ muốn nhân viên mới giúp công ty tăng tốc để tiến về phía trước. Ngược lại, nếu có điều gì đó không ổn, họ muốn nhân viên mới nhanh chóng khắc phục.

Theo kinh nghiệm của Sue Leboza, Phó chủ tịch phụ trách công nghệ thông tin cho nhóm dược phẩm của công ty Abbott Laboratories, nhân viên mới cần xác định các nhu cầu của công ty rõ ràng khi quyết định “nhập gia”. Leboza nói: “Nếu bạn không hỏi hoặc không biết các yêu cầu này, bạn sẽ không đánh giá được tình hình và không tránh khỏi chuyện làm sai trong 100 ngày đầu tiên làm việc”.

Một trong những cách để thẩm định tình hình là trò chuyện, bàn bạc với đồng nghiệp, thành viên trong nhóm làm việc, các cố vấn và những người muốn giúp bạn.

2. Soi gương để biết mình

Bạn cần biết cách thức sếp đánh giá kết quả làm việc của bạn sau vài tháng công tác. Trong quyển sách về kế hoạch làm việc trong ba tháng đầu tiên (The First 90-Days: Critical success strategies for new leaders at all level), tác giả Michael D. Watkins, đồng sáng lập công ty Genesis Advisers LLC, khuyên rằng để biết được điều đó bạn sẽ phải kết hợp hai hình thức hỏi và quan sát.

Và ngay cả trong những câu trả lời thẳng thắn nhất có thể sếp cũng để lại vài điều không muốn hoặc không tiện nói ra. Vì vậy, bạn có thể hỏi sếp về một gương mặt mới nổi của công ty và tìm hiểu xem điều gì đã giúp người đó gặt hái sự thành công”, Watkins nói.

3. Tạo dựng niềm tin

Thành công của bất kỳ ai, ở vị trí nào cũng có sự góp sức của đồng nghiệp và các cố vấn. Nhưng để đạt thành tựu nào đó, bạn cần nhận diện những cá nhân sẽ có những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến khả năng hoàn tất công việc của bạn. Caela Farren, người sáng lập và là Giám đốc điều hành của Mastery Work Inc., một công ty chuyên về tư vấn nghề nghiệp, quản lý nhân lực ở Falls Church (Mỹ), nói rằng điều này rất quan trọng đối với nhân viên ngành công nghệ thông tin vì không phải chỉ làm hài lòng các cố vấn mà còn các nhân viên khác trong mạng lưới làm việc ở công ty.

Còn Matt Harzman, Phó chủ tịch IS của College of American Pathologists, bang Illinois (Mỹ) kể lại khi mới chuyển từ công việc hỗ trợ kỹ thuật cho bộ phận bán hàng của một nhà cung cấp máy tính sang làm quản lý đội ngũ hỗ trợ kỹ thuật bán hàng, ông cũng xây dựng một kế hoạch gọi là gặp gỡ những người bán hàng.

“Suốt ba tháng đầu tiên ở vị trí mới, tôi dồn sức cho kế hoạch xây dựng niềm tin giữa các thành viên trong đội ngũ bán hàng, hỗ trợ kỹ thuật. Rồi đến lượt họ truyền niềm tin đó vào mối quan hệ khách hàng thân thiết của công ty,” Hartzman tâm sự.

4. Hiểu văn hóa công ty

Khéo léo tìm hiểu văn hóa, quy định, nội quy của công ty là việc nhân viên mới cần ưu tiên thực hiện. Cathie Kozil, Phó chủ tịch phụ trách công nghệ thông tin của Motorola Inc., cho biết hồi mới vào làm cô nghĩ rằng Motorola là một công ty về công nghệ cao nên hẳn có những quy trình làm việc giống như ở công ty cũ nên cứ cắm cúi làm việc mà không tìm hiểu.

Phải mất đến cả tháng sau đó, Kozil mới nhận ra sự khác biệt. Mặc dù chuyện xảy ra không gây rắc rối cho Kozil, nhưng cô thừa nhận nó đã tác động mạnh đến suy nghĩ của cô. Sau đó, Kozil đã gạt bỏ những giả định mà trước đó cô cho rằng đúng, không cần bàn luận và chú ý hơn vào những tôn chỉ mục đích hoạt động của công ty.

5. Về đích sớm

Mọi người sẽ “phán quyết” bạn từ khởi đầu công việc, vì vậy ngoài chuyện lập kế hoạch, bạn phải đưa ra thời gian biểu thực hiện và quyết liệt đeo bám tiến độ thực hiện công việc. Một cách để đạt mục tiêu này là tự treo giải về đích sớm cho chính mình. Paddock nói rằng bằng cách tự gây áp lực cho mình để đeo bám công việc, rút ngắn thời gian thực hiện, cô đã hoàn thành kế hoạch 100 ngày với một tác động không ngờ tới.

“Ông chủ của bạn sẽ hiểu bạn làm việc như thế nào qua kế hoạch làm việc đã hoàn thành, đồng thời ông cũng sẽ phát hiện ra những nhân viên nào còn thời gian rỗi và chỉ làm những việc dễ dàng,” Paddock tâm sự.
Phương Anh (Computerworld/TBKTSG)

Tổ chức công việc


Bạn ngán ngẩm nhìn vào bàn làm việc với những mớ tài liệu chất ngất? Rất nhiều việc cần làm ngay mà không biết nên làm việc gì trước, việc gì sau?

Bạn đang mắc căn bệnh điển hình của các nhân viên văn phòng thời hiện đại. Những mẹo nhỏ và kinh nghiệm sau đây có thể là phương pháp trị liệu căn bệnh nan y đó.

Nhiều người dùng rất nhiều phương tiện hiện đại để lập lịch làm việc như sử dụng máy tính với phần mềm chuyên dụng (Microsoft Schedule); lịch để bàn điện tử; ghi nhớ thông tin vào máy điện thoại di động; ghi vào lịch để bàn… Tuy vậy, tất cả những thứ đó vẫn chưa thay thế được phương pháp truyền thống, rất đơn giản và hiệu quả, đó là: một cuốn sổ và một chiếc bút.

Gạch đầu dòng những việc bạn sẽ làm và sau khi đã thực hiện thì lấy bút gạch đi. Lịch làm việc là vật bất ly thân của bạn, nó theo bạn mọi nơi, mọi lúc - lên thư viện, đi làm, đi học thêm, gối đầu giường khi ngủ và ngay cả trong toa-lét (riêng khả năng cơ động này sổ và bút cũng đã hơn đứt laptop). Hơn nữa, nếu chỉ dùng máy tính, bạn sẽ trở nên rất phụ thuộc vào nó, mất điện, trục trặc phần mềm hay virus là điều không thể tránh được.

Rèn luyện óc tổ chức

Hãy tự đặt cho mình ba câu hỏi sau: Bạn có biết chìa khóa xe máy hiện tại của bạn đang nằm chính xác ở đâu không? Bạn có biết 9h sáng ngày mai bạn sẽ làm gì hay không? Bạn có nhớ được hết ngày sinh của mọi người trong gia đình hay không? Nếu bạn trả lời là: không hoặc không biết thì bạn chưa có óc tổ chức công việc.

Giải pháp đơn giản: rèn luyện. Tôi viết ra tất cả những việc sẽ phải làm và làm theo những gì đã viết. Sắp xếp một không gian làm việc của riêng mình sao cho mọi vật dụng trong phòng làm việc cũng như trong gia đình điều có mục đích của nó. Nếu một vật dụng tồn tại không có mục đích trong tầm mắt của tôi thì tốt nhất xếp chúng ra chỗ khác.

Sắp xếp lại tài liệu trong máy tính

Người ta gọi màn hình máy tính là desktop (mặt bàn). Nhiệm vụ của bạn là phải bày biện mặt bàn đó làm sao cho thuận tiện, bố trí tài liệu hợp lý vào các ngăn kéo để khi cần có thể tìm được ngay. Và cách tổ chức theo dạng thư mục hình cây là một trong những cách rất hiệu quả.

Trong từng thư mục bạn lại tổ chức thành các tệp dữ liệu. Như vậy sẽ tiết kiệm thời gian khi tìm kiếm. Bạn phân chia nhỏ thành càng nhiều thư mục con càng tốt chứ không nên nhét hết tất cả các tệp vào My documents. Để dễ nhớ nên ghi lại các thư mục, các tệp tài liệu để dễ tìm hơn.

Sắp xếp bàn làm việc

Phần trên là bạn đã sắp xếp bàn làm việc ảo. Bây giờ sẽ sắp xếp mặt bàn làm việc thật.

Bàn làm việc nên được sắp xếp gọn gàng và ít tài liệu trên đó. Nhiều người để bàn làm việc của mình như một biển tài liệu chất ngất, nhìn đã thấy choáng không biết bắt đầu từ việc gì. Mọi thứ bạn cần như văn phòng phẩm bạn phải đặt sao cho dễ lấy, dễ sử dụng.

Sắp xếp thứ tự ưu tiên của từng công việc

Có bốn phương pháp cơ bản:

- Đánh số độ khẩn cấp: việc rất gấp đánh số (1), việc bình thường đánh số (2), việc không gấp đánh số (3).

- Dùng bút để đánh dấu công việc: việc cần làm ngay dùng bút đỏ, việc bình thường dùng bút xanh, việc có thể làm sau dùng bút đen.

- Phân loại các giấy tờ công việc vào các cặp tài liệu có màu khác nhau. Việc khẩn cấp cho vào cặp màu đỏ; việc bình thường cho vào cặp màu xanh; việc không gấp cho vào cặp màu đen. Khi bạn trình giấy tờ cho sếp, dần dần các sếp sẽ biết được ám hiệu đó để xử lý ngay những việc khẩn cấp.

- Dùng các phương pháp kỹ thuật để xác định thời gian phải hoàn thành công việc: có nhiều phương pháp nhưng điển hình là phương pháp dùng sơ đồ Găng.

Ngày thứ sáu sắp xếp lại toàn bộ các tài liệu làm việc trong tuần. Mỗi tuần, bạn chỉ mất khoảng 30 phút nhưng bàn làm việc của bạn sẽ sáng sủa hẳn. Năng suất lao động của bạn sẽ tăng lên rất nhiều.

Muốn vậy, bạn hãy trả lời ba câu hỏi sau: Bạn có cần tài liệu này không? Bạn đã dùng tài liệu này chưa? Tài liệu này có ích không? Nếu câu trả lời là: Không hoặc không biết thì bạn cho luôn tài liệu đó vào thùng rác cho gọn.

Hãy biết từ chối nếu sếp giao quá nhiều việc

Nếu bạn đã có quá nhiều việc, nếu sếp giao thêm việc sẽ ảnh hưởng đến chất lượng công việc thì bạn nên tế nhị từ chối.

Nhiều khi người quản lý đánh giá nhân viên qua hiệu quả công việc chứ không phải qua số lượng công việc.

Cảnh giác với các phương tiện kỹ thuật cao

Mọi vật dụng và phương tiện làm việc dù hiện đại đến đâu thì đều có tính hai mặt.

Internet mang lại nhiều tiện ích cho cuộc sống tạo ra một cuộc cách mạng thực sự nhưng cũng là cái bẫy thời gian. Nếu bạn say mê thì nó sẽ ngốn không biết bao nhiêu thời gian của bạn và cuối cùng bạn không có thì giờ để làm những việc khác.
Điện thoại di động chỉ có ích khi coi nó là phương tiên liên lạc nhưng nhiều người liên tục thay đổi điện thoại cho hợp mốt. Như vậy máy móc không phải để phục vụ con người mà con người trở thành nô lệ của máy móc.

Xác định được việc gì là việc quan trọng

Điều này rất quan trọng nếu bạn làm công tác quản lý. Tất cả các cán bộ quản lý từ quản lý 2-3 người cho đến nguyên thủ quốc gia có giỏi hay không chỉ phân biệt được ở chỗ: Họ biết việc nào là việc quan trọng, việc nào là việc mấu chốt.
Đây là một việc khó, đòi hỏi nhà quản lý có sự nhạy cảm đặc biệt có thể xác định được những việc có khả năng nảy sinh rắc rối. Nhà quản lý tồi hay đi vào những công việc chi tiết mà cấp dưới có thể làm được trong khi lơ là, bỏ qua những việc quan trọng.

Bạn phải loại bỏ sự rắc rối ngay từ khi nó mới còn trong trứng nước để tránh phức tạp sau này. Điều đó luôn giúp bạn chủ động trong mọi lĩnh vực.

Theo Kết Nối Sự Nghiệp

Nghệ thuật nói "không"

Trước lời yêu cầu của người khác, không phải lúc nào bạn cũng có thể nói "có", chấp nhận lời đề nghị ngay được. Tuy vậy, bạn cũng rất băn khoăn không biết nên từ chối thế nào cho thật “dễ nghe” hoặc chí ít chỉ là tạm thời trì hoãn lời đề nghị, không làm ảnh hưởng tới mối quan hệ tốt đẹp đã có giữa hai người.

Dưới đây là một số những cụm từ bạn có thể sử dụng để nói “không” một cách tự nhiên, tự nhiên như khi bạn nói "có" vậy. Tuy vậy, để những cụm từ này mang lại hiệu quả như mong muốn, hãy nhớ rằng nét mặt và ngữ điệu của bạn cũng phải phù hợp với lời bạn nói ra.

“Không” hay “Không, cảm ơn”

Từ đơn giản nhất để tạo một điểm dừng là "không". Đó là một từ của quyền lực thuần túy. Đôi khi bắt đầu câu nói bằng từ "không" sẽ rất hữu ích, mang quyền lực trở lại trong lời nói của chúng ta, làm cho lời nói có trọng lượng hơn. “Không! Mẹ chỉ muốn con ăn những gì tốt cho sức khỏe, vì thế con không được phép ăn kem trước bữa tối” - đó là lời đầy quyền uy mà người mẹ nói với con mình. Từ "không" đã mang nghĩa thật rõ ràng và thẳng thắn.

Từ chối một cách thẳng thắn cũng có ưu thế của nó nhưng tốt hơn hết là hãy biểu lộ ý một cách trang nhã. Trong một cuốn phim thời sự kể về Mahatma Gandhi, có đoạn kể về chuyến thăm và nói chuyện hòa bình của ông với người dân Anh, chúng ta thấy những phóng viên hăm hở phỏng vấn ông, đưa micro về phía ông, nhưng ông chỉ đáp lời một cách đơn giản: “Tôi nghĩ là không” và tiếp tục bước đi, mỉm cười.

Thêm một lời cảm ơn vào câu nói "không" sẽ thể hiện lòng tôn trọng và sự quan tâm dành cho mối quan hệ. Từ "không" mang nghĩa bảo vệ quyền uy và từ cảm ơn thể hiện mối liên hệ với sự quan tâm. Một câu nói đơn giản, đầy quyền uy và được đánh giá cao “Không, cảm ơn” là đủ để thể hiện lời khước từ của bạn. Nếu bạn đang cảm thấy tốn thời gian với những nhân viên marketing qua điện thoại phớt lờ hoàn toàn lời đáp ban đầu "Không, cảm ơn" của bạn, thì bạn có thể nói: “Bây giờ tôi đang nói Không. Cảm ơn! Tạm biệt”.

“Tôi có một nguyên tắc”

Có một cách đầy quyền lực để tạo dựng khung giới hạn đó là cách nói về một chính sách của riêng bạn. Ví dụ như: “Tôi có một nguyên tắc là không bao giờ cho bạn bè vay tiền mà không nói rõ là khi nào trả”, hoặc “Tôi không bao giờ đáp lời những cuộc gọi điện thoại nài xin, khẩn khoản”.

Khi bạn nói rằng bạn có một nguyên tắc, có nghĩa là bạn đang muốn nhấn mạnh rằng từ "không" của bạn không phải là một thông điệp “dùng một lần”, mà là một thói quen, một lối sống của riêng bạn, bạn đã phải đầu tư suy nghĩ nhiều cho nguyên tắc này. Đó là một dấu hiệu thể hiện sự kiên quyết, một dấu hiệu cho thấy bạn sẽ không thay đổi quyết định. Tất nhiên, cụm từ này chỉ có tác dụng khi đó thực sự là nguyên tắc của bạn và là thứ gì đó bạn đã dành nhiều thời gian để suy nghĩ.

Tạo dựng khung giới hạn như một nguyên tắc cũng có lợi là để những người khác biết rằng từ "không" của bạn không hề có ý cá nhân và nó còn thể hiện ý tích cực. Bạn nói "không" với họ cũng đơn giản như bạn nói "có" với những nguyên lý và giá trị bạn đã lựa chọn. Tóm lại, nói “Tôi có một nguyên tắc” khẳng định mối quan tâm của bạn, làm tăng thêm quyền uy và làm cho quyết định khước từ không còn thể hiện chỉ là ý kiến cá nhân tức thời nữa.

Hãy xem xét ví dụ sau đây. Đó là câu chuyện về một nhà máy dệt luôn trong tình trạng hối hả, gấp gáp trước các yêu cầu đặt hàng của khách. Qua nhiều năm, công ty giải quyết tình trạng này bằng cách tự điều chỉnh kế hoạch cho “hợp lý”. Khi có một khách hàng nào đó bắt đầu tức giận vì đơn hàng bị đình trệ, nhà sản xuất sẽ giải quyết bằng cách “leo thang - chen ngang” – có nghĩa là sẽ làm gấp riêng đơn hàng đó và tạm ngưng tất cả các đơn hàng khác lại.

Hậu quả là một hệ thống làm việc không có tổ chức và luôn vấp phải sự không hài lòng nói chung của tất cả các khách hàng. Cuối cùng, sau nhiều lần quá mệt mỏi với tính trạng này, ban lãnh đạo công ty quyết định cần phải đối mặt với thực tế vấn đề và thuê một đội chuyên gia tư vấn tìm ra giải pháp xây dựng một hệ thống sản xuất làm việc đúng thời hạn. Để hệ thống đi vào hoạt động có hiệu quả, họ đưa ra một chính sách mới cho tất cả các khác hàng: không "leo thang - chen ngang". Họ thông báo về chính sách mới và làm đúng theo chủ trương chính sách đề ra bất luận các phản hồi khác nhau từ phía khách hàng.

Kết quả cuối cùng là gì? Chính sách không leo thang đã giúp nhà máy giảm thiểu tối đa sự chồng chéo trong cách quản lý đơn hàng và vì vậy cho phép công ty có thể hoàn thành các đơn hàng chỉ trong vòng 2 tuần thay vì 6 tuần như trước đây. Giờ đây, có rất ít sự trì hoãn xảy ra trong các đơn đặt hàng và công ty không cần phải dùng tới biện pháp “leo thang - chen ngang” tạm thời như trước đây nữa - chính sách đã đem lại lợi ích cho tất cả mọi người, cả công ty và khách hàng.

(Theo lanhdao)

Bí quyết tự lãnh đạo


Mới đây, Giáo sư Sherie Olmstead, đến từ Học viện UBI, Bỉ, lần đầu tiên có mặt ở TPHCM, đã trao đổi về khả năng tự lãnh đạo và những bí quyết để rèn luyện khả năng này với một số doanh nhân trẻ. Sau đây là bài lược ghi cuộc trao đổi này nhằm giúp thêm thông tin cho các bạn sắp khởi nghiệp.
Mỗi người trong chúng ta đều là nhà lãnh đạo, theo bà Sherie Olmstead. Thật vậy, bạn có thể đang lãnh đạo một doanh nghiệp, hoặc chỉ lãnh đạo gia đình hay thậm chí chỉ lãnh đạo bản thân mình. Dù ở vị trí nào, yêu cầu đặt ra với một nhà lãnh đạo là khả năng tự lãnh đạo. Và điều quan trọng là mọi người đều có khả năng này nhưng để phát huy hiệu quả của nó thì không phải ai cũng làm được.

Với một cái danh thiếp và một cây kéo, bạn có nghĩ là mình có thể cắt được một cái lỗ đủ rộng để tròng qua được đầu mình? Phần lớn câu trả lời đều cho là “không thể”. Nhưng chỉ trong vài phút, bà Sherie Olmstead đã biến tấm danh thiếp thành một cái vòng giấy vừa với cỡ đầu của một anh bạn doanh nhân trẻ. Như vậy vấn đề ở đây là có thể sử dụng kiểu cắt zig zag trong môn học thủ công để thực hiện yêu cầu đặt ra chứ không hẳn là cắt ngay một hình tròn.

Qua sự việc này cho thấy câu trả lời “không thể” là do chúng ta bị phụ thuộc vào những giả định trong quá khứ . Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường giả định rất nhiều việc, điều này vô hình trung tạo ra một quán tính và đôi khi làm hạn chế khả năng sáng tạo của mỗi người. Để vượt qua cái ngưỡng tâm lý này, theo bà Sherie Olmstead, người có khả năng tự lãnh đạo phải luôn biết đặt câu hỏi và tìm ra giải pháp cho vấn đề. Đây cũng là một trong ba bí quyết để nâng cao khả năng tự lãnh đạo của mỗi người.

Bí quyết thứ hai, theo bà Olmstead, là việc tận dụng quyền lực trong mỗi con người. Trong quản trị doanh nghiệp, có năm loại quyền lực mà mỗi người đều có thể có, hoặc cả năm hoặc chỉ là một trong số đó, và quan trọng hơn là cách chúng ta sử dụng nó như thế nào.

Năm loại quyền lực đó là quyền lực đến từ chức vụ (position power); đến từ nhiệm vụ (task power); từ kiến thức (knowlegde power); từ mối quan hệ (relationship power); và quyền lực cá nhân (personal power). “Nếu chúng ta sử dụng hết quyền lực của mình để phát triển bản thân cũng như giúp những người khác trong công ty thì chính là chúng ta đang rèn luyện khả năng tự lãnh đạo”, bà Olmstead nói.

Thật ra việc rèn luyện này là cả một quá trình, vì vậy chúng ta nên liệt kê những điểm mạnh, điểm yếu của riêng mình rồi tự đặt ra những cam kết và phải có quyết tâm để thực hiện những cam kết đó cũng như các mục tiêu đã đặt ra.

Chẳng hạn như bạn muốn cải tổ việc điều hành công ty, bạn phải biết mình muốn đạt đến điều gì và bạn có đủ năng lực và quyết tâm để làm điều đó không? Sau khi đã xác định được mục tiêu công việc, nếu bạn không đủ năng lực thực hiện tất yếu bạn phải cần sự hướng dẫn. Còn nếu bạn không đủ quyết tâm để làm thì bạn cần sự hỗ trợ. Trong quá trình thực hiện, tùy từng giai đoạn mà sự hướng dẫn và sự hỗ trợ sẽ tăng hoặc giảm theo nhu cầu của bạn (chứ không theo sự giả định).

Có thể nói hai bí quyết đầu tiên để rèn luyện khả năng tự lãnh đạo liên quan đến “nội lực” hơn là “ngoại lực”. Vậy bí quyết thứ ba là gì?

Ở cơ quan, hay trong một doanh nghiệp, chắc có lần bạn đã từng chứng kiến cảnh một nữ nhân viên phải khóc trong một cuộc họp về chuyên môn, vậy bạn có cho rằng khóc là biểu hiện của sự yếu đuối? Dưới góc nhìn của một nhà quản trị như bà Olmstead, “hiện tượng khóc” cần được nhìn nhận như là một nhu cầu về sự lắng nghe, cảm thông hơn là biểu hiện của sự yếu đuối. Bà Sherie Olmstead lý giải: khi đó nhu cầu hợp tác phát sinh và người lãnh đạo phải làm sao để nhân viên bộc lộ điều mà họ muốn. Như vậy, nhà lãnh đạo đã phát huy tốt quyền lực đến từ mối quan hệ để giải quyết công việc thay vì sử dụng quyền lực đến từ chức vụ thường dễ dẫn đến những tác động tiêu cực trong trường hợp này.

Theo bà Olmstead, một nhà lãnh đạo nếu biết kêu gọi sự hợp tác, khuyến khích nhân viên trao đổi về mục tiêu công việc của cơ quan thì khả năng thành công của doanh nghiệp cũng như của từng thành viên trong đó cũng sẽ cao hơn.

Tóm lại, với bà Sherie Olmstead, một nhà giáo đồng thời cũng là nhà tư vấn, khả năng lãnh đạo không phải là yếu tố bẩm sinh và để trở thành nhà lãnh đạo đòi hỏi phải có quá trình rèn luyện, đặc biệt là rèn luyện khả năng tự lãnh đạo.




Nguồn : theo TBKTSG

Bạn đang tự cản đường mình?

Nhiều khi công việc không thuận lợi không phải là do người khác mưu mô hãm hại bạn mà chính bản thân bạn đang tự gây khó dễ cho mình bởi những lỗi cơ bản.
Chần chừ
Chần chừ khác với kiên nhẫn, vì vậy rất nhiều người cứ tưởng rằng mình đang vào vai kiên nhẫn rất thành công. Điểm khác nhau cơ bản là chần chừ chỉ mang tới hậu quả chứ không có hiệu quả.
Thử trả lời một câu hỏi, theo bạn thì “phút cuối” của một dự án là vào lúc nào? Đêm trước ngày deadline không phải là “phút cuối” để bạn hoàn thành một bản thuyết trì40 trang trước các nhà đầu tư hay chuẩn bị cho một bộ hồ sơ hoạch định chiến lược trình bày trước ban giám đốc.
Trong các trường hợp này thì “phút cuối” có thể phải cách deadline một tháng! Nghe thì có vẻ như chúng ta đang quan trọng hóa vấn đề nhưng việc chuẩn bị cho một dự án lớn yêu cầu rất nhiều công việc phối hợp thực hiện cùng lúc.
Không phải công việc nào cũng có thể được hoàn thành nhanh gọn trong một đêm trước deadline và vì thế cần phải xác định rõ được tính chất từng công việc để tính toán thời gian sao cho hợp lý.
Những người hay chần chừ tự cho phép bản thân mình ngồi chơi không, rung đùi hoặc ngủ ngon lành khi những người khác bắt tay vào việc từ lâu.
Và khi họ bắt tay vào làm thì đã tới giai đoạn cuối của dự án, có rất nhiều việc chồng chất và bắt đầu có một vài công việc liên quan tới dự án khác. Vậy là không chỉ dự án của họ gặp trở ngại mà cả những dự án liên quan cũng chững lại theo.
Đấy là chưa kể tới tâm lý chủ quan khi hoàn thành xong công việc, chẳng có ai lại nghĩ ngay đến việc chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo mà đa số nghĩ đến việc nghỉ ngơi cho khỏe đã! Vì vậy đừng tỏ ra chủ quan, nhởn nhơ nhất là khi bạn không phải là thiên tài!
Hội chứng “xào nấu”
Hội chứng này thường liên quan tới việc những cơ sở hiện thực đã được “xào nấu” để dùng trong các buổi họp quan trọng. Dĩ nhiên các sếp nhà ta vẫn luôn đủ tỉnh táo để nhận ra mùi “xào nấu” trong những ý kiến lập luận của các “bếp trưởng” này vốn là để lấp liếm cho nhau.
Và để ý các sếp thỉnh thoảng cũng có những câu nói bông đùa, những câu hỏi thăm dò cứ tưởng là “để cho vui” nhưng lại có thể khiến cho ối “bếp trưởng” lòi đuôi chỉ vì cái tật thích “khoe tài”! Luôn bám sát vào thực tế, nói đơn giản: không biết thì không cần thiết phải phát biểu!
Mất khả năng lắng nghe
Ít ra bạn phải là một trong những người có quyền cao chức trọng thì mới có thể tự cho phép mình lơ đễnh không để ý tới người khác nói gì!
Có những anh chàng rất giỏi giang, chuẩn bị sẵn cho mình một bài thuyết trình dài dằng dặc, nói liên mồm trong 20 phút nhưng ngay sau khi về chỗ là dán mắt vào chiếc điện thoại di động để nhắn tin.
Hay tệ hơn thì anh chàng ngồi thư giãn nhâm nhi cà phê mặc kệ các thành viên khác tiếp tục cuộc họp. Sau đó, dĩ nhiên anh ta sẽ bị mọi người cạch mặt, không được dự những buổi họp khác nữa, tầm quan trọng của anh ta cũng giảm hẳn cho dù anh ta có giỏi đến mức nào đi chăng nữa.
Hãy học cách lắng nghe ngay cả khi bạn không đồng ý. Những thông tin được đưa ra luôn cần thiết và không bao giờ thừa.
Không trung thực
Chưa cần bàn tới nói dối, nhưng không trung thực ở đây có thể hiểu là khi bạn sợ phải nói với sếp những điều mà sếp không muốn nghe. Tình hình kinh doanh không được khả quan nhưng bạn không dám báo cáo như vậy với sếp mà tô hồng những gì đang xảy ra để yên ủi sếp.
Chỉ tới khi bộ phận kế toán giải trình rành mạch với sếp về “bức tranh thực tại” thì mọi chuyện không chỉ là doanh số bán hàng không đạt yêu cầu mà còn là sự xuất hiện của một nhân viên không đáng tin trong mắt sếp.
Trung thực quá đáng
Điều này không có nghĩa là bạn cần phải lên gặp sếp ngay khi nhận kết quả doanh số bán hàng để thể hiện sự lo lắng, bi quan tột độ!
Đó là một giải pháp không thông minh và chắc chắn bạn sẽ không được đánh giá cao với sự trung thực thái quá này.
“Chúng ta đang gặp phải một vài vấn đề không như mong muốn nhưng hy vọng là mọi chuyện sẽ cải thiện trong tuần tới!” – chỉ với một thông điệp đơn giản vừa trung thực lại vừa tế nhị chắc chắn sẽ được đón nhận tích cực hơn.
Sự thật giống như sôcôla vậy: một miếng nhỏ có thể mang tới sự hài lòng; quá nhiều có thể gây nguy hiểm. Một nhân viên khôn ngoan luôn biết cách truyền tải thông tin tới sếp vừa đủ.
Tính “Thiên Lôi”
Một nhân viên luôn dự các buổi họp với gương mặt cau có. Bài diễn thuyết được trình bày rõ ràng, mạch lạc đến nỗi mọi người không ai dám phản bác vì những ý tưởng tốt cộng với phong cách... mạnh bạo!
Không hẳn vì những ý tưởng đó đã đủ hoàn hảo để mọi người đồng loạt nhất trí mà đơn giản vì mọi người chỉ muốn “dĩ hòa vi quý”, không muốn giây với “mắm tôm”.
Dĩ nhiên có thể trước đó có nhiều chuyện khiến bạn bực mình nhưng hãy tạm gác “cái sự bực mình” đấy lại để đảm bảo không khí buổi họp không nặng nề, “khó thở” đối với những người tham gia! Tươi tỉnh lên một chút để mọi người làm việc thoải mái hơn, hiệu quả hơn!
Chưa đủ khéo
Nôm na là việc nhận công và nhận lỗi của bạn phải thật là khéo léo. Theo lẽ tự nhiên, ai cũng muốn mình là người có công nhiều nhất.
Tuy nhiên, tốt hơn hết, bạn chỉ nên nhận nhiều nhất là 70% công trạng về mình và dành 30% còn lại cho những người xung quanh. Còn việc nhận lỗi thì không đơn giản chút nào.
Không bao giờ trốn tránh trách nhiệm, lỗi lầm do mình gây ra – đấy là câu nói có thể sáo mòn nhưng chẳng mấy ai đủ can đảm để đương đầu. Và sự thật là chẳng ai có thể ưa nổi những kẻ hèn kém, chui lủi, chỉ lo quanh co chối tội.
Và hãy để ý xem nếu như cấp trên của bạn thực sự cần được ghi công, hãy để cấp trên nhận thay bạn. Hoặc nếu như cấp trên của bạn không thể dính dáng tới một số sơ xuất, hãy nhận thay.
Cấp trên sẽ đánh giá cao khi bạn tỏ ra khéo léo một cách tinh tế và bạn không phải lo thiệt. Ở đây chúng ta đang nói đến khía cạnh phải khéo léo, tinh tế trong việc nhận công hay nhận lỗi. Dĩ nhiên nếu như tình trạng cướp công và đổ lỗi diễn ra như cơm bữa thì đấu tranh đòi quyền lợi là giải pháp “khéo” nhất!
Tuấn Huy

26/2/09

10 định dạng cơ bản của bố cục trang quảng cáo


1. Bố cục theo kiểu Mondrian

Đây là một trong những cách định dạng phổ biến nhất, tận dụng theo những đường kẻ dày hoặc vạch kẻ nhỏ nét màu đen và những khối tô đồng màu, chia bản vẽ thành những ô hình chữ nhật, ô vuông ngang dọc. Cách vẽ này được đặt theo tên họa sỹ người Hà Lan Piet Mondrian, đặc biệt phổ biến đối với việc dàn trang báo. Dựa trên sự phối hợp tinh tế giữa ô khối và màu sắc, Mondrian vẫn là một trong những nguyên tắc bố cục lý tưởng nhất hiện nay.

2. Bố cục thiên về chữ

Theo đúng như tên gọi, điểm nổi bật trong cách định dạng trang bố cục này là chữ. Có hai lý do khiến nhà quảng cáo chọn theo bố cục này, là:
Thứ nhất, những ý tưởng cần diễn đạt quá phức tạp, quá quan trọng hoặc độc đáo, không thể diễn đạt bằng hình ảnh được.
Thứ hai, hầu hết các mẫu quảng cáo đều được trình bày theo kiểu “cửa sổ lớn” hoặc quá thiên về hình ảnh. Khi đó, một mục quảng cáo đầy chữ, trầm lặng, có vẻ như nặng nề nhưng lại rất nổi bật. Do cách quảng cáo thiên về chữ tự bản thân nó trông có vẻ nghiêm túc hơn những cách khác nên các chi tiết quảng cáo này thường được trình bày một cách cân xứng. Ví dụ như các hàng tiêu đề với phông chữ Roman được canh giữa, phần lời quảng cáo được bắt đầu bằng chữ cái với kích thước lớn hơn và chia thành hai cột trở lên.

3. Bố cục kiểu “cửa sổ lớn”

Cách trình bày này đặc biệt thích hợp với các tạp chí do chú trọng tới ưu thế về hình ảnh. Lợi điểm của bố cục kiểu “cửa sổ lớn” là phần hình ảnh và phần lời không trùng lên nhau. Không có vấn đề “nghệ thuật vị nghệ thuật” ở đây mà chỉ có không gian rộng lớn cho phần hình và chọn lọc chặt chẽ phần lời để có thể trình bày đủ trong phần không gian nhỏ còn thừa lại.
Các nhà thiết kế thường trình bày hình ngay sát lề và loại bỏ tối đa những phần không cần thiết nhằm tạo ấn tượng lớn cho người xem. Phía dưới hình là hàng tiêu đề canh giữa, phần lời quảng cáo có thể được trình bày dưới dạng hai hay ba cột. Để tạo mối quan hệ giữa phần hình và phần lời, các nhà thiết kế có thể cho in phần tiêu đề lên ảnh hoặc để tiêu đề màu trắng trên nền ảnh đậm, hoặc có thể dàn phần lời trong phần hình.

4. Bố cục kiểu pano

Thông thường, các nhà thiết kế dung các ô pano cùng cỡ và áp dụng hiệu quả ngắt âm để dẫn dắt người đọc đọc hết nội dung quảng cáo. Tạo sự khác nhau về tỷ lệ bằng cách tạo các khối ô nội dung quảng cáo lớn hơn những ô đóng khung tiêu đề, chú giải và chữ ký. Các ô pano này có thể áp dụng để trình bày một câu chuyện hoặc đơn giản để trình bày một loạt sản phẩm như kiểu bàn cờ.

5. Bố cục dạng khung

Bố cục dạng khung thường được dùng nhiều trên các báo hơn là trên tạp chí, giúp tách biệt mẫu quảng cáo khỏi rừng các mẫu quảng cáo khác. Theo dạng này, các nhà thiết kế thường đóng khung phần trình bày bằng những đường viền, đôi khi là những đường vẽ mỹ thuật và dùng những khoảng trống ở giữa cho những tiêu đề và lời quảng cáo.
Một trong những biến thể dạng khung là dành phần lớn phạm vi cho phép để trình bày hình ảnh theo một khung hình quả thận, phần trống còn lại dành cho phần tiêu đề và lời quảng cáo. Một biến thể khác là dành toàn bộ phạm vi cho phép trình bày phần hình ảnh, phần chữ thường được in đen trên phần hình màu nhạt hoặc in trắng trên nền hình màu đậm.

6. Bố cục kiểu chữ lớn

Sử dụng kiểu chữ trong quảng cáo thiết kế là cả một nghệ thuật. Bố cục dùng kiểu chữ lớn sẽ tạo ra ấn tượng bởi cách kết hợp hoàn hảo các kiểu chữ với nhau, tràn đầy cả một trang báo và tạo ấn tượng cũng chỉ bằng các đường nét biến tấu của kiểu chữ. Thông thường, chúng ta liên hệ dạng quảng cáo dùng kiểu chữ lớn với các sản phẩm bán lẻ tiêu thụ chậm, nhưng các kiểu chữ tao nhã, thiết kế cẩn thận có thể chọn màu ngả đen khi dùng ở kích thước lớn vẫn có thể thu hút được những khách hàng chú trọng về hình tượng. Các kiểu chữ có thể chạy sát nhau, không cần khoảng cách dòng hoặc chồng một phần lên nhau hoặc có thể chắp vá pha trộn để làm tăng cái hồn của mẫu quảng cáo.

7. Cảm hứng từ các bảng chữ cái

Vẻ đẹp của các chữ cái do các nhà thiết kế tạo ra nhiều thế kỷ trước đã tạo nguồn cảm hứng mới cho các nhà thiết kế quảng cáo. Những hình dạng cơ bản của các chữ cái, cả chữ in và chữ thường đều có thể sử dụng như những mẫu cơ bản để sắp xếp các chi tiết của một quảng cáo.
Một mẫu quảng cáo thiết kế theo hình dạng một chữ cái bất kỳ trong bảng chữ cái hay một con số nào đó thường rất chặt chẽ về tính đồng nhất và dễ xem. Đó là hai yếu tố quan trọng nhất trong thiết kế, tuy nhiên các nhà thiết kế nên tránh cách bố trí quá rõ ràng theo hình dạng của một chữ cái mà chỉ nên dùng nó như một gợi ý.

8. Bố cục hình bóng

Bố cục hình bong được tạo ra từ các hình thù độc nhất của thiết kế quảng cáo. Hình bong càng không theo một quy cách càng tốt. ta có thể xem xét nghệ thuật cắt chân dung bằng giấy trước đây để thấy được tính ưu việt của các hình bóng không theo quy cách so với hình bóng đúng quy cách. Nghệ nhân luôn dùng kéo cắt theo hình nghiêng, chứ không theo mặt chính diện. Nếu không, khó ai có thể nhận diện được bức chân dung, các chân dung sẽ giống nhau vì đường nét của khuôn mặt chính diện không thu hút người xem bằng được nét vẽ khuôn mặt nhìn nghiêng. Bố cục hình bóng chính là cách trình bày theo hướng nhìn nghiêng.

9. Bố cục dạng sống động

Bố cục thuộc dạng sống động là bố cục không thuộc một trình tự mẫu sẵn có nào. Với những hình khối đảo lộn, những kiểu chữ quá cỡ, hình trang trí kiểu mặt trời tỏa sáng, độ nghiêng và những thủ thuật tinh tế, bố cục này tuy không đạt được giải thưởng thiết kế nhưng rõ rang nó sẽ giúp bán được hàng, ít nhất là đối với một loại hàng hóa nhất định và một đối tượng khách hàng nào đó. Nó làm cho người xem phải dừng lại, suy ngẫm và chính trong quá trình tìm hiểu sự khác thường này, người xem sẽ nhớ mẫu quảng cáo đó hơn.
Bí quyết thành công của một bố cục sống động nằm ở sự trung thành của nhà thiết kế đối với những nguyên tắc thiết kế cơ bản. Các chi tiết của mẫu quảng cáo được sắp xếp theo từng đơn vị, các đơn vị này lại được sắp xếp thành mẫu thống nhất. Khi có nhiều chi tiết cùng kích thước, các nhà thiết kế có thể đạt được một tỷ lệ vừa ý bằng cách kết hợp một số phần để có một đơn vị lớn hơn nhằm tạo nên sự tương phản với các đơn vị khác trong cùng mẫu quảng cáo.

10. Bố cục câu đố bằng tranh

Câu đố bằng tranh là loại câu đố có các hình vẽ thể hiện từ ngữ hoặc âm tiết. Câu dố bằng tranh cải tiến là loại câu đố trong đó hình ảnh một từ hoặc một cụm từ không được viết ra mà được thể hiện bằng một hình vẽ. Các nhà quảng cáo không thể hiện mẫu quảng cáo dưới dạng câu đố vì tính rõ ràng rất quan trọng, nhưng có thể thổi phồng lời quảng cáo bằng cách chèn thêm một loạt hình minh họa. Các hình này có thể có cùng kích cỡ nhằm đem lại hiệu quả ngắt âm hoặc có thể khác kích cỡ để tạo sự đa dạng cho mẫu quảng cáo. Trong một số trường hợp, “lời quảng cáo” không gì khác ngoài một loạt hình ảnh.
Trước khi bắt tay vào thiết kế, việc xem xét từng cách định dạng cơ bản sẽ rất hữu ích. Bạn hãy chọn một bố cục, khi bắt tay phác thảo có thể trong đầu bạn sẽ nảy sinh ra những biến thể mới. Khi kết hợp các biến thế ấy thành một bố cục thống nhất, bạn sẽ thấy sự tìm tòi tỷ mỷ này mang lại kết quả hơn cả sự mong đợi.

Giám đốc sáng tạo Việt


TT - Số lượng công ty quảng cáo ở TP.HCM không nhiều, nhu cầu nhân sự không chạy theo số đông nhưng giám đốc sáng tạo (creative director - CD) lại là một “mặt hàng VIP” khan hiếm.

Một số công ty săn đầu người thậm chí còn tin rằng số lượng CD Việt chuyên nghiệp có thể đếm trên đầu ngón tay.

Làm hay xong phải... quên

Cô bạn trẻ Thu Sương, CD Công ty Events, có thói quen rất “xấu” là thấy cái gì hay, mới, lạ cũng tìm đến “sờ mó”, sau đó rút chiếc máy ảnh “chộp” và cho vào máy tính xách tay.

Sương kể: “Hồi nhỏ tôi làm gì cũng bị má chê là hổng giống ai. Tôi luôn nhớ đến câu nói đó mỗi khi bắt đầu tư duy một sáng tạo mới: phải độc đáo, phải khác biệt”.

Như mọi CD khác, cô bạn này chú ý rất kỹ các chương trình quảng cáo, các sự kiện. Đi siêu thị, Sương âm thầm đứng một góc “quay phim” cái cách người ta “phê” khi thử nước hoa; đến quán ăn, cô “chụp hình” cảm giác thèm thuồng của thực khách đói bụng... Cô gái trẻ tâm sự: “Làm nghề này đầu óc cứ suy nghĩ miên man với những ý tưởng sao cho độc đáo, người cứ bay như ở... cõi trên”.

Ngay tại phòng làm việc đầy những vật dụng lạ mắt do chủ phòng sưu tầm hoặc thiết kế, Nguyễn Cao Đô (Hiền, CD của Công ty Clipper Indochine) thú thật “nhức đầu triền miên...” chỉ để đạt các chỉ số kinh doanh “nghiệt ngã” từ phía khách hàng. Ronald Wong (CD của Công ty 141 Worldwide) nói thẳng: “Chỉ khi khách hàng chấp nhận thì ý tưởng sáng tạo của mình mới được góp mặt vào thị trường”. “Vắt óc sáng tạo, giao người ta, người ta liếc qua, lắc đầu một cái là... tiêu” - Hiền cười như... mếu tâm sự.

Gần như CD nào cũng có ít nhất một lần “thất trận” do thiếu sự quan tâm đúng mức tới các yếu tố chính trị, lịch sử, văn hóa… CD M. kể một kỷ niệm nhớ đời: “Lần đó, mẩu quảng cáo của chúng tôi bị một số khán giả truyền hình ở Hà Nội phản ứng do nhân vật nữ hơi... ***y”. Một số CD đã bỏ nghề ngay lần thất bại đầu tiên.

CD Hiền bộc bạch: “Làm được cái gì hay xong phải... quên đi để không bị rập khuôn chính mình, và phải biết học từ những lần ngã ngựa của mình và đồng nghiệp”.

“Bơi” theo chuyên nghiệp

Các CD chuyên nghiệp hoạt động ở VN thường có tuổi đời trên dưới 40. Theo ông Trần Hoàng - giám đốc Vietnam Marcom chuyên đào tạo nhân lực ngành quảng cáo, họ đã phải hành nghề sáng tạo suốt 10-20 năm trong môi trường chuyên nghiệp mới “thấu hiểu những ngõ ngách của cuộc chơi sáng tạo phục vụ kinh doanh”.

Trên thực tế, nhiều CD đi lên từ hai chức danh cũng thuộc bộ phận sáng tạo là copywriter (viết lời quảng cáo) hoặc art director (giám đốc mỹ thuật). Ronald Wong cho biết anh từng cả chục năm là một chân thiết kế đồ họa (graphic designer).

Điều quan trọng nhất đối với một CD chuyên nghiệp là khả năng quản lý, đào tạo những đồng sự sáng tạo. Trong một số tình huống chính họ phải “xắn tay áo”, nhưng thường thì chỉ gợi ý và kiểm tra, hỗ trợ các đồng sự phát huy tiềm năng sáng tạo.

Theo các CD có kinh nghiệm, xây dựng được một êkip sáng tạo thật “ăn ý” là công việc cực kỳ khó khăn và mất nhiều thời gian, công sức. Có quá nhiều lý do có thể làm giảm sức sáng tạo của nhóm như tâm lý bất ổn, tệ bè phái, thói ích kỷ cá nhân... Hiền cho biết đã từng đấu tranh quyết liệt với một nhà quản lý để bảo vệ “đội hình lý tưởng”, “chỉ chú tâm lao động sáng tạo” của mình.

Lương của CD các công ty trong nước khoảng 1.000 USD/tháng, thấp hơn nhiều lần so với một CD làm việc tại các công ty quảng cáo đa quốc gia. Theo ông Trần Hoàng, trên thị trường nhân lực hiện nay CD Việt có kinh nghiệm nhiều năm trong môi trường chuyên nghiệp chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Lý do? Quảng cáo là một ngành kinh tế tri thức, song chúng ta chưa có chính sách đúng mức trong hỗ trợ đào tạo; ngoài xã hội cũng chưa có sân chơi nào cho người làm sáng tạo trong ngành quảng cáo. Đó là chưa kể thị trường quảng cáo VN mới phát triển nên chưa thu hút sự quan tâm của giới trẻ.

Mặc dù vậy, một số CD Việt đã chủ động tìm đến các khóa đào tạo căn bản, nỗ lực học hỏi chuyên sâu từ quá trình hoạt động thực tiễn trong các êkip sáng tạo...

THÁI BÌNH

Bài này của Tuổi Trẻ

Bên dưới là ý kiến của Cộng đồng:

tieuthu12

@tieuthu12: CD o vietnam tui thay chua co dc cai danh gia' chuan xac nhu ben nuoc ngoai ,o nuoc ngoai 1 CD thuong dc rat trong dung vi kha nang ,tam quan sat cua ho voi khach hang va thi truong ,con o VN CD HAY GRAPHICDESIGN HAY PHOTOGRAPHER ở VN kha nang cua ho co cao cach may cung bi may thang dau tu o vn hay may thang chu vn đanh gia (quan trong la luong )là bèo nhèo như kít heo boi vay luc nao cung phat trien di cham hon nguoi ta khong kha noi la cho do

@tidenbz: Lam gi co nghanh dao tao Creative Director nhi? Neu vay chac co nghanh lam Thu? tu'o'/ng.
@Youkai: Design la art. Cai chinh la "art" duoc dat trong pha.m tru nao. Nhung nguoi lam design khong nhung nen hieu biet nhieu ve nghe thuat noi chung (nghe thuat kieu han la^m, vi nghe thuat), ma con phai co kien thuc xa hoi va cuoc song (nghe thuat vi nhan sinh). Dung ben canh 1 hoa si, 1 nha dieu khac, 1 designer khong he thua kem


@ shi2nqt: Bài viết đó còn rất sơ sài, chỉ thấy bề nổi chứ không thấy bề chìm. Chưa kể viết thông tin bị sai nhiều. Làm CD đâu có dễ như vậy, đi đào tạo vài lớp là lên CD

Sương là copywriter của Events chứ ko phải CD, mà hình như đã nghỉ làm ở Events rồi.
Ronald thì chắc lúc đó đang nhậu xỉn nơi mới phát biểu lung tung như thế

Ở VN bây giờ có nhiều CD tự phong, chẳng có kinh nghiệm, đào tạo gì cả. Ai đời có CD nào thất bại lần đầu đã bỏ cuộc!!! Đã làm lên tới CD thì chắc chắn thất bại không biết bao nhiêu lần rồi.

@ vizion

vizion: Đồng ý với shi2nqt: "Ở VN bây giờ có nhiều CD tự phong, chẳng có kinh nghiệm, đào tạo gì cả. Ai đời có CD nào thất bại lần đầu đã bỏ cuộc!!! Đã làm lên tới CD thì chắc chắn thất bại không biết bao nhiêu lần rồi."

Thất bại, thất bại lại làm lại không bao giờ bỏ cuộc đó mới là những người thành công



to YOUKAI : tui đang lam ve GRAPHIC DESIGN kinh nghiem thi dc. bèo bèo 2 nam roi(dù zì cũng hơn là bạn còn nằm trên ghế nhà truong ),con ban chi moi tren con duong hoc. van nen chua co kinh nghiem chua bi cai goi la "cung cach doi su cua nghe" ma nhat la cai nghe nay o VN chua va cham dc voi thuc te cong viec nen ban khong hieu dc dau thi xin dung co ma ha hong mac quai .Bai viet cua ban con chung to ban chi moi la 1 hoc trò
jqka

jqka: bài báo viết xạo bà cố.nghe là ko tin rồi.đúng là mấy ông nhà báo.
dù sao cũng thanks anh rồng đã post.

@ viettu

Không biết tieuthu trước khi " làm về graphic design" có từng ngồi qua chiếc ghế học trò đó và từng nghe những kiến thức đó chưa, vì tôi tin ngay tới 1 CD vẫn phải thừa nhận những kiến thức đó đúng, và chặt chẽ về lý luận. Là 1 designer, không biết bạn đã tiếp xúc với các CD Việt đầy tài năng và đuợc trọng dụng trong các công ty nước ngoài hoặc những công ty qc Việt Nam đầy tiềm lực? và biêt chiếc ghế học trò đó quan trọng đến thế nào trong sự nghiệp và kiến thúc của họ? Và " cái nghề này ở VN" non trẻ nhưng không hề bỏ quên tài năng và sức sáng tạo đích thực.
Qua những gì miêu tả về Thu Sương trên báo, thấy đó giống cung cách làm việc của 1 account service, 1 copywriter hơn 1 creative.
Làm qc cũng là nghệ thuật, và những người trong đó cũng là nghệ sỹ đáng tự hào.
To tieuthu12: là 1 designer, bạn nên chỉnh chu hơn trong từ ngữ ngôn luận và sắc bén hơn trong ý kiến thì mới thuyết phục đuợc hơn cái vốn kiinh nghiệm mà chỉ mình bạn biết. Thân
dinobrain: ở VN sáng tạo để quảng cáo thu hút khách rất khó..vì bị hạn chế nhiều lắm về văn hóa. cũng như mình có ý kiến hay về 1 quảng cáo nào đó có dính dáng đến ***y và bạo lực 1 chút thì VN kô chofép... chính ***y và những cái kỳ cục mới làm người ta chú ý mới chết chứ... như film quảng cáo con chó đực lụm xương về thấy chó cái đang hự hự hự với chó khác... VN cho chết liền... bên ngòai thì người ta chiếu tùm lum và khen hay...ai cũng nhớ hết trơn...

nếu vậy thì để được sáng tạo ở VN thì chỉ bám theo văn hóa... truyền thống... rồi những chuyện thông thường mà thôi... như vậy thì chán fèo...ai mà nhớ.
nếu CD mà thật sự thành công ở VN thì rất giỏi


nói thêm cái: như mấy mẫu quảng cáo trê nTV ở VN... toan những chuyện tầm thường... nào là anh Thắng kìa .... rồi nấu ăn là nghệ thuật , người nấu là nghệ shỹ ... cái đó xem thấy rất chán ... nhiều khi thấy hơi sến chút... mấy cái đó kô có đi sâu vào trí nhớ... quảng cáo nào mà làm cho người ta muốn trả lui film trên TV lại xem lần nữa mới good ...
VN nếu quảng cáo thành công thì chỉ dựa vào các câu nói hay... như: Whisper : nhẹ như tơ

nãy giờ ý nói là làm creative thật sự mà bị gò bó là kô được.

Thiên thời - địa lợi - nhân hòa thôi mà, quảng cáo sáng tạo phải hợp với văn hóa bản địa chứ
Còn thành công của quảng cáo nào phải nhìn vào kết quả và doanh thu của thuơng hiệu sau khi tung ra. Mình không thích, có thể công ty qc đó cũng không hoan toan vừa lòng, nhưng nó thỏa mãn và gần gũi với đối tượng khách hàng mục tiêu của sản phẩm đó, đó mới là cái chính mà qc nhắm vào. C2on 1 qc mà nói lên được cái văn hóa mà vẫn hay, vẫn lạ thì người ta vẫn nhớ và thích nó, thậm chí hơn cả những cái giật gân.

Quảng cáo hay communication bản chất đều là problem-solving, giống như việc phải giải một bài tóan, một vấn đề.
Chuyện văn hóa bản địa, hạn chế kiểm duyệt chung quy cũng chỉ là những bài toán hay những vấn đề mà người làm phải vượt qua.

Quảng cáo chỉ lấy ***/politic để gây chú ý là một quan niệm sai lầm. Có cả tỉ cách để gây chú ý, một quảng cáo không có hình, toàn chữ cũng có thể gây chú ý được. Phải tùy vào tầng lớp, đối tượng mà mẫu quảng cáo hướng đến. Làm quảng cáo đâu phải chỉ xoay quanh Whisper hay condom?

Không chỉ có VN mới kiểm duyệt, ở nước ngoài nếu bạn run một quảng cáo gây ảnh hướng xấu đến giới trẻ hay trẻ em thì cũng sẽ bị gỡ xuống thôi (có khác là đã chạy rồi mới bị gỡ bỏ), nhưng đường nào thì đó cũng là một quảng cáo thất bại.

22/2/09

TĂNG ĐẦU TƯ VÀO CON NGƯỜI

Tôi nhìn vào lương Nhà nước trả cho công nhân viên hoạt động trong khu vực nhà nước, đặc biệt trong khu vực dịch vụ nhà nước.

Ngân sách Nhà nước tính theo tỷ lệ GDP ở Việt Nam là 30%, cao gấp đôi Ấn Độ và gấp rưỡi Trung Quốc hay Thái Lan, nhưng lại trả lương cho công nhân rất thấp, chỉ bằng 13% tổng chi ngân sách và bằng có 3,8% GDP, đây là hình thức bóc lột thặng dư lao động nhằm tăng đầu tư ở khu vực kinh tế nhà nước. Thu ngân sách nhiều, nhưng chi phí cho dân rất ít. Tổng số chi của Nhà nước cho các dịch vụ phục vụ nhân dân chỉ có 6,1% GDP, thấp hơn một nửa so với Trung Quốc hoặc Thái Lan. Phần còn lại là đầu tư. Đó là chưa kể đến phần đầu tư mà doanh nghiệp quốc doanh thực hiện dựa một phần quan trọng vào giá trị thặng dư vì lương lao động trả thấp.

Trả lương thấp, lo cho dân chúng thấp là vì Nhà nước muốn tập trung vốn vào đầu tư. Chính vì thế mà đầu tư lên tới 41% GDP. Đầu tư vào loại hàng đầu thế giới nhưng hiệu quả thấp, tốc độ tăng GDP cũng không cao, và trở thành nhân tố chính tạo tham nhũng và gây nạn lạm phát cao, làm đời sống đại đa số dân chúng với lương đã quá thấp khốn khổ thêm.

Tỷ lệ để dành của nền kinh tế là 29% GDP, có vẻ khá cao nhưng không phải từ thu nhập của người lao động. Để dành gồm nhiều phần: để dành của dân chúng, để dành của doanh nghiệp nhà nước và nước ngoài và để dành của Nhà nước. Tất nhiên để dành của Nhà nước là âm; phần để dành của dân chúng từ sản xuất khi trừ đi tiền kiều bào và lao động ở nước ngoài gửi về chắc chắn là không nhiều; vì lương thấp, do đó phần còn lại chính là từ khấu hao và thăng dư lao động mà doanh nghiệp quốc doanh giữ lại. Người dân lao động lương không đủ sống, lại được hưởng lợi ích xã hội thấp, do đó sản xuất chỉ để Nhà nước bòn rút thặng dư đưa vào tích luỹ.

Cần có một cái nhìn mới về chiến lược phát triển, mà chất lượng phải được đặt lên hàng đầu. Lương lao động đủ sống phải được coi là đầu tư vào con người. Chính con người là vốn quan trọng nhất trong phát triển. Khi lương không đủ sống, con người sẽ rất dễ làm những điều bình thường họ không làm, do đó mà đạo đức xã hội xuống dốc. Chúng ta cần xét lại chính sách tăng cường thặng dư nhằm tăng tích luỹ để chạy theo tốc độ tăng GDP bất chấp hậu quả hiện nay và quay trở lại với một Nhà nước có trách nhiệm xã hội.

Tiến sĩ VŨ QUANG VIỆT

19/2/09

NHÀ BÁO HIỆN ĐẠI - Sự phát triển của các tổ chức truyền thông đa phương tiện


Các công ty truyền thông như viễn thông, truyền hình cáp và các khối giải trí đang tranh giành nhau để có chân trong “thị trường” tích hợp các phương tiện truyền thông mới. Một vài ví dụ:
v Henry Luce đã giành được sự kiểm soát hoàn toàn tạp chí Time (www.time.com). Người kế nghiệp của ông thêm vào đó những tạp chí thành công khác, bao gồm tờ Fortune và tờ Sports Illustrated. Hiện tại mảng tạp chí là một phần nhỏ của công ty khổng lồ AOL Time Warner (www.timewarner.com), chuyên về chương trình giải trí, xuất bản sách, tạp chí và chương trình truyền hình cáp đặc sắc. Nó bao gồm những đơn vị khác nhau như Cable News Network (www.cnn.com), Warner Brothers (www.timewarner.com), và đội bóng chày Atlanta Braves. Gần đây hơn, nó trở thành một bộ phận của American Online (www.aol.com) trong sự liên doanh truyền thông lớn nhất trong lịch sử. Sự liên doanh đó minh họa sinh động cho sự kết hợp các phương tiện truyền thông cũ và mới.
v Cox Enterprises Inc. (www.coxnews.com) bắt đầu chỉ với một tờ báo vào năm 1898. Cox là một trong những công ty truyền thông lớn nhất quốc gia, và về mặt lịch sử, nó bao gồm cả những phương tiện truyền thông hiện đại: đài phát thanh, đài truyền hình và truyền hình cáp. Vào tháng 4/1996, Cox Interactive Media được thành lập để cho ra đời những tờ báo trực tuyến ở các thành phố mà có sự hiện diện của các phương tiện truyền thông của Cox. Và Access – Atlanta (www.accessatlanta.com) là trang thông tin quan trọng hàng đầu.
v Knight Ridder (www.kri.com), một trong những công ty truyền thông được chú trọng nhất ở Mỹ, từ lâu đã nhận thấy giá trị của việc truyền tải tin điện tử. Thử nghiệm vào những năm 1940, những bản tin đầu tiên được fax, vào những năm 1970, bản tin được truyền hình và vào những năm 1990 báo được điện toán hóa và phát lên mạng. Bạn có thể tìm tất cả các báo trực tuyến của Knight – Ridder trên mạng Real Cities Network (www.realcities.com) và tờ San Jose Mercury News đi đầu trong việc phát tin qua Internet với trang web Mercury Center (www.mercurycenter.com) của nó.
v Những công ty phát hành báo lớn khác, bao gồm New York Times Co. (www.nyt.com) và Tribune Co., nhà xuất bản của tờ Chicago Tribune (www.tribune.com), chuyển tin chủ yếu qua mạng Internet.
v Thậm chí các công ty báo chí nhỏ cũng vào cuộc. Tờ Lawrence Journal - World (www.ljworld.com) mở một công ty truyền hình cáp và một trang web và là người sử dụng đầu tiên công nghệ “đẩy”, đưa thông tin đến cho người dùng dựa vào sự thu hút được xác định trước.
v Các công ty truyền hình cũng không thoát khỏi sự liên kết. NBC (www.home.nbci.com) có một trong nhiều trang đầy tham vọng trên Internet, và có những dự án chung về truyền hình và Internet với hãng máy tính khổng lồ Microsoft (www.msnbc.com). Các hãng khác như CBS, ESPN, FOX va CNN đều có những trang chính trên Internet.
Việc các hãng như Microsoft nhảy vào địa hạt truyền thông làm những ai xưa nay đang kiếm sống trong ngành này phải lo lắng. Nhiều người đặt câu hỏi liệu một công ty như Microsoft, nổi tiếng đã không từ chuyện gì để cải thiện lợi nhuận, có thể đáp ứng được những tiêu chuẩn cao được đặt ra bởi các nguyên tắc truyền thông cho việc quản lý các hoạt động tin tức hay không. Nhưng kể từ lúc Microsoft trình làng mạng Microsoft chứa đầy tin tức, nó đã tiếp thu rất nhiều từ các báo, các đài truyền hình, báo cáo của các công ty trong việc đảm bảo những tiêu chuẩn khắt khe cho các hoạt động truyền thông từ lâu đã được đề cao.
Những hãng như Microsoft sẽ không đặt chân vào công việc kinh doanh nếu tiềm năng về lợi nhuận không đáng kể. Rõ ràng, Microsoft, AOL Time Warner, và MTI’s Negroponte có chung một tầm nhìn về tương lai – kết hợp các phương tiện truyền thông và giải trí vào một phương thức truyền thông mới có khả năng cung cấp sự lựa chọn tin tức bằng văn bản hay bằng các đoạn phim và những bộ phim mới nhất bất kì khi nào được yêu cầu. Tầm nhìn đó là nền tảng cho sự mua bán ồ ạt tài sản của các hãng truyền thông diễn ra trong suốt những năm 1990 và những sự liên kết các phương tiện truyền thông là có thể vì sự bãi bỏ quy định xảy ra sau khi Luật Viễn Thông được thông qua năm 1996. Bức tranh các phương tiện truyền thông đang thay đổi mạnh mẽ khi các công ty tự đặt cho mình một vai trò trong thương trường truyền thông của tương lai. Và trong khi chưa ai biết chính xác dạng phương tiện truyền thông tương lai sẽ là gì, hay dạng thức đó được phát đi như thế nào, thì mọi người đã muốn chia sẻ lợi nhuận. Thị trường triển vọng trong tương lai vô cùng lớn.
Bởi vì những cấu trúc liên kết đang thay đổi, nên những tòa soạn báo cũng thay đổi. Ví dụ, ở trụ sở chính của NBC tại New York, một thế hệ nhà báo mới đã lấy những bài báo từ mạng lưới các tòa soạn và số hóa chúng để lưu vào máy tính. Những bài báo này tạo cơ sở cho NBC Desktop News, một hệ thống thông tin bằng hình ảnh theo yêu cầu được bán rộng rãi cho các công ty trên toàn quốc. Nó đã được hợp nhất thành MSNBC.
Gộp chung vào các phương tiện truyền thông mới là những tiện ích của dịch vụ thông tin công cộng qua mạng, bao gồm CompuServe, Prodigy, American Online, Microsoft Network và các công ty khác. Càng ngày chúng càng đầy quảng cáo. Thậm chí Internet – trước kia thì những hoạt động bí mật của máy vi tính chỉ có một vài người uyên bác và các chuyên gia máy tính hiểu được – đang ngày càng trở thành phương tiện chuyển tải quảng cáo thương mại nhắm đến những bộ phận công chúng riêng biệt.
Điều đó giúp chúng ta nhận ra cái mà không mấy người làm báo muốn nghe: Chính quảng cáo chứ không phải tin tức đã là động lực phát triển của thị trường truyền thông. Để hiểu những sự thay đổi trong ngành truyền thông, phải theo sau đồng tiền quảng cáo. Có nhiều xu hướng cho thấy ngày càng có nhiều tiền quảng cáo đổ vào các phương tiện truyền thông hiện đại – thư điện tử gửi trực tiếp, truyền hình cáp, các mạng thông tin, và xa dần các phương tiện truyền thông truyền thống như truyền hình và báo chí. Cho đến bây giờ, thay đổi đó còn chậm, các chuyên gia quảng cáo mong muốn nó thay đổi nhanh hơn để tiếp tục tìm kiếm cách tốt nhất nhắm vào những khán giả mà mình mong muốn. Có thể một vài năm tới đây sẽ có những thay đổi nhanh chóng trong sự tích hợp các phương tiện truyền thông.
Vì sự tích hợp các phương tiện truyền thông thay đổi, nên định nghĩa về tin tức cũng thay đổi. Như chúng ta đã đề cập ở chương 1, những định nghĩa tin tức truyền thống nay không còn phù hợp nữa. Và hơn thế, định nghĩa tin tức đang thay đổi theo cách mà nhiều nhà báo chưa hề tưởng tượng được. Sự phát triển nhanh chóng của các dịch vụ thông tin qua mạng và thư điện tử có thể làm cho con người trên khắp thế giới gặp gỡ nhau qua mạng. Ở đó họ chia sẻ cùng nhau kiến thức, thuật lại cho nhau những chuyển biến mới nhất với hàng ngàn chủ đề. Những bộ phận được dùng nhiều nhất trong hệ thống đó là các diễn đàn và những trang tin điện tử. Những người sử dụng chọn thông tin theo những đề tài mà họ thích thú.
Điều đó đặt ra một câu hỏi là liệu chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mà vai trò lập chương trình của các phương tiện truyền thông sẽ thu hẹp lại? Theo truyền thống, các phương tiện truyền thông quyết định cái mà công chúng cần phải biết về một sự kiện nào đó. Hơn thế nữa, các phương tiện truyền thông đặt ra chương trình chung bằng cách sắp xếp sự quan trọng tương đối của các chuyên mục – theo sự trình bày và kích cỡ của chuyên mục hay trình tự trình chiếu trong chương trình truyền hình. Đảm đương nhiệm vụ như người gác cổng thông tin, các phương tiện truyền thông quyết định các sự kiện được bộc lộ đến mức độ nào. Với việc xuất hiện của phương tiện truyền thông qua mạng, tất cả những điều đó đang thay đổi. Càng ngày công chúng càng có khả năng lựa chọn từ núi thông tin khổng lồ và tự quyết định cái nào quan trọng, cái nào không. Không giống như báo, truyền hình, tạp chí, các phương tiện truyền thông qua mạng có không gian gần như vô hạn để truyền tải thông tin. Vì vậy, vai trò của những người làm nghề truyền tải tin tức như người gác cổng đang thu hẹp lại.
Những sự thay đổi đó sẽ yêu cầu một sự điều chỉnh trong vai trò của các nhà báo. Sự điều chỉnh đó tác động đến xã hội chúng ta như thế nào thì còn chưa rõ. Những người theo thuyết vị lai tin rằng các phương tiện truyền thông tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong việc lên chương trình nếu như chúng không ở trong vai trò người gác cổng thông tin nữa. Các nhà báo sẽ phải giúp công chúng chọn lọc qua lượng thông tin khổng lồ và nói cho họ biết cái nào là quan trọng. Một vài nhà báo phải dành thời gian làm điều đó cho chính bản thân họ.
Sẽ có rất nhiều việc làm cho các nhà báo. Rốt cuộc, vẫn phải có một ai đó thu thập tin tức và tổ chức nó thành một chương trình dễ tiếp thu, hữu dụng. Nhưng những dịch vụ truyền thông mới sẽ đòi hỏi các nhà báo trình độ kỹ năng rộng hơn. Trong khi một số nhà báo có thể tập trung vào viết, như bây giờ, thì họ sẽ phải thể hiện sự đánh giá phong phú hơn qua hình ảnh, biểu đồ, đồ thị, bản đồ – và thậm chí các thiết bị nghe nhìn – có thể bổ sung cho bài báo của họ. Đó là bởi vì các nhà báo tương lai sẽ phải am hiểu các dạng truyền thông, bằng thị giác cũng như bằng ngôn từ. Nhiều cơ quan báo chí đang ủng hộ thực tế đó vì họ cố gắng làm cho các phóng viên tư duy bằng hình ảnh nhiều hơn và các nhà nhiếp ảnh, nhà quay phim tư duy bằng ngôn từ nhiều hơn. Để cung cấp những kỹ năng này, các trường báo chí truyền thông đang thay đổi chương trình giảng dạy để giúp sinh viên cảm thấy dễ dàng hơn trong việc tiếp nhận những điểm cần thiết của tất cả các loại hình truyền thông. Bất kể những thay đổi đó, hầu hết các nhà báo trẻ trong một vài năm tới sẽ bước vào nghề ở những vị trí truyền thống.
Do vậy, đây quả là thách thức khi bạn lên kế hoạch cho sự nghiệp báo chí truyền thông của mình. Bạn không chỉ lập kế hoạch cho một nghề nghiệp cụ thể trong mạng lưới truyền thông hiện nay mà còn phải chuẩn bị cho một thời kỳ thay đổi bước ngoặt. Mặc dù sự thay đổi gây ra nhiều phiền toái, nhưng nó cũng đem đến những hi vọng. Đây là cơ hội để bạn tham gia vào giai đoạn chuyển tiếp của truyền thông đại chúng, một giai đoạn chắc chắn mở ra nhiều cánh cửa thành công.
THE MISSOURI GROUP biên soạn

NHÀ BÁO HIỆN ĐẠI - Nhà báo không ngừng thay đổi


Ơ Tampa, tờ Tampa Tribune cùng với đài truyền hình WFLA có chung một tòa soạn. Tại sao? Gil Thelen, Tổng biên tập tờ Tribune, viết: “Mục đích của chúng tôi là phục vụ nhu cầu đang ngày càng thay đổi của độc giả và khán giả.
Họ đi trước chúng tôi trong việc sử dụng kết hợp cả báo in, truyền hình và lên mạng suốt ngày. Tôn chỉ của chúng tôi: “Luôn đi cùng thời sự và thông tin mọi lúc và mọi cách mà khách hàng của chúng tôi mong muốn”. Ông Thelen nói thêm: “Với tin nóng, chúng tôi cố gắng đưa tin sớm nhất, thường là truyền hình nhưng thỉnh thoảng là trực tuyến”.
Các nhân vật điều hành Media General, công ty sở hữu Tribune và WFLA mong muốn tạo được sự cộng tác với nhau để làm cho các hoạt động thông tin của mình đạt được hiệu quả cao nhất trên thị trường Tampa. Để làm điều đó, các cơ quan truyền thông của nó không chỉ chia sẻ phòng tòa soạn mà còn cộng tác trong việc đưa tin. Như đã nói ở chương 1, các loại hình truyền thông đan xen lẫn nhau như thế được gọi là sự hội tụ, và đó là trào lưu hiện nay trong công nghệ truyền thông. Điều đang diễn ra ở Tampa hầu như là một ví dụ sinh động nhất của sự hội tụ đang nổi lên ở Mỹ. Thật vậy, những cơ quan báo chí khác quan tâm đến cuộc thử nghiệm ở Tampa đến nỗi Ban biên tập của Media General bắt buộc chỉ cho người ngoài tham quan một ngày mỗi tháng.
Nhiều người cho rằng chúng ta đang chứng kiến đỉnh cao của một sự thay đổi lớn trong toàn cảnh truyền thông. Nicholas Negroponte, người sáng lập cũng là giám đốc Viện Công nghệ Massachusetts, miêu tả tính ưu việt của phương thức truyền thông mới như một hệ thống máy vi tính tại gia cho phép truy cập những ngân hàng dữ liệu rộng lớn và hiển thị kết quả ở dạng hình ảnh, âm thanh hay văn bản. Vì vậy, những thế mạnh chủ yếu của truyền hình – màu sắc, sự thu hút thị giác, tính trực tiếp, chi phí phân phối thấp – có thể kết hợp với ưu điểm của báo in – chiều sâu thông tin, sự giải thích rõ ràng và dễ mang theo người. Các hệ thống như thế phụ thuộc vào những dịch vụ kết nối Internet cao tốc, dịch vụ truyền hình cáp đến mỗi gia đình mà các công ty viễn thông đang đổ xô cung cấp.
Một vài thử nghiệm giống như thử nghiệm ở Tampa ngày nay có thể được thực hiện xuyên quốc gia vì những luật lệ của Hội đồng Truyền thông Liên bang (Federal Communications Commission – FCC) hạn chế sự sở hữu chồng chéo giữa báo in - báo hình trong một thị trường đơn lẻ. Ở Tampa, tờ Tribune và đài WFLA có thể làm điều đó vì cả hai đều phụ thuộc vào Media General trước khi luật của FCC có hiệu lực. Hạn chế nói trên đã không làm giảm sự hào hứng với những gì đang diễn ra ở Tampa, và nhiều người mong FCC nới lỏng những trói buộc đối với sự sở hữu chồng chéo đó. Nếu điều này xảy ra, hãy coi chừng một cơn lũ thử nghiệm kiểu Tampa.
Kinh nghiệm Tampa cho thấy, ngày nay việc chuẩn bị bước vào kinh doanh tin tức là một thử thách. Đó là vì công nghệ đang thay đổi nhanh chưa từng thấy trong lịch sử. Báo, tạp chí, máy thu thanh, máy thu hình – những phương tiện truyền thông truyền thống – đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng mới từ những trang Web dựa trên mạng vi tính và truyền hình cáp. Tất cả những ai sở hữu chúng, như Media General, đang cố gắng tính toán chiến lược tốt nhất cho tương lai.
Và là một nhà báo đầy nhiệt huyết, đương nhiên bạn phải hỏi: Tôi phải chuẩn bị như thế nào cho nghề nghiệp trong ngành công nghiệp truyền thông? Rất có thể, câu trả lời là phải làm quen với cái gọi là phương tiện truyền thông đại chúng mới, dựa vào Internet cũng như phương tiện truyền thông hiện tại.
Tương lai thật khó đoán trước bởi vì ở một mức độ nào đó các phương tiện truyền thông hiện tại dường như bị đe dọa bởi một phương thức truyền thông mới hay còn gọi là phương tiện truyền thông trực tuyến, một thuật ngữ chỉ những hệ thống phát tin dựa vào máy vi tính. Cũng như Negroponte, nhiều người mong đợi rốt cuộc một sự hội tụ của báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình thành một phương thức truyền thông mới trong tương lai. Dù điều đó có xảy ra hay không, xảy ra nhanh hay chậm, và khi nào thì cũng chỉ là phỏng đoán của mỗi người. Và dù sao bạn cũng phải đối đầu với thử thách khi bạn lập kế hoạch cho nghề làm báo của mình. Bạn không chỉ phải chuẩn bị làm việc cho một trong những loại hình truyền thông hôm nay mà còn phải sẵn sàng làm việc cho các loại hình truyền thông của tương lai. Bạn có thể làm những việc mà sau này sẽ biến mất, nhưng bạn cũng có thể làm những việc đang còn được phát minh. Dù sao đi nữa, vẫn có một yêu cầu hiển nhiên được duy trì cho những người đang hành nghề báo, bất chấp ở loại hình truyền thông nào, là phải tường thuật tốt, viết tốt, biên tập tốt và giao tiếp tốt.
Để rõ thêm về sự thay đổi nhanh chóng trong thế giới thương mại truyền thông, hãy xem xét một vài thống kê về báo in. Những thông tin này được xuất bản bởi Hội Liên hiệp Báo chí Mỹ, tổ chức thương mại đang dẫn đầu trong ngành công nghiệp báo chí:
* Công nghiệp báo chí đang thu hẹp lại. Có 1.483 tờ báo ngày ở Mỹ vào cuối năm 1999, so với 1.745 tờ vào năm 1980. Ít hơn 262 tờ.
* Vào năm 1970, có 78% người lớn của nước này hằng ngày đọc một tờ báo, nhưng năm 1999, tỉ lệ này giảm xuống, còn 61% nam và 53% phụ nữ. Tệ hại hơn, các cuộc điều tra cho thấy sự sụt giảm nhiều nhất là trong số các độc giả ở độ tuổi 34 trở xuống. Nghe có vẻ đó là điều đáng ngại cho tương lai, khi những độc giả lớn tuổi mất đi, sẽ không còn ai thay thế cho họ. Các nghiên cứu cho rằng người nào không sớm phát huy thói quen đọc báo thì cũng không làm được điều đó trong cuộc sống sau này.
Nếu ngành công nghiệp báo chí đang đi xuống, như một số tranh luận đưa ra, thì sự thực nó còn lâu mới chết. Hãy xem:
* Báo chí vẫn là một trong những ngành công nghiệp có lời nhất, được hỗ trợ phần lớn bởi vị trí gần như độc quyền ở hầu hết các thành phố.
* Báo ngày tiếp tục nắm giữ phần lợi nhuận lớn nhất từ quảng cáo, chi phối tin tức địa phương và các thị trường quảng cáo.
Những thống kê mâu thuẫn đó minh họa cho vấn đề mà các tờ báo phải đối mặt: có lợi thế trong một lúc nào đó, nhưng bị thách thức về lâu dài.
Không chỉ một mình báo in bị đe dọa. Những đối thủ truyền thống cũng gặp phải khó khăn nghiêm trọng. Mạng lưới truyền hình, đối thủ chính của báo in cả về lợi nhuận quảng cáo lẫn khán giả, đã trải qua những lúc tài chính lao đao. Việc sáng lập ra những mạng lưới truyền hình Mỹ lớn hơn (của Fox và Warner Brothers) đã phân chia khán giả, và sự phát triển của các kênh truyền hình cáp đã phân khán giả thành những thị phần nhỏ hơn. Các kênh truyền hình cáp gây khó khăn thật sự cho công nghệ truyền hình; không giống mạng lưới truyền hình, nó được xác định vị trí thật lý tưởng để hướng khán giả về phía các nhà quảng cáo bởi vì nó tập trung vào những mảng thông tin nổi bật (thể thao, sức khỏe và làm đẹp, trẻ em...). Cũng như báo in, mạng lưới truyền hình có thể cung cấp thông tin đến một lượng lớn khán giả, nhưng không phải là lượng khán giả liên kết mà các nhà quảng cáo thèm muốn. Đài phát thanh dễ hướng tới nhiều khán giả hơn nhưng ảnh hưởng của nó đối với công nghệ truyền thông, nếu tính về doanh thu quảng cáo, thì rất nhỏ.
Tạp chí, giống đài phát thanh và truyền hình cáp, cung cấp công chúng cho các nhà quảng cáo, nhưng với chi phí ngày càng tăng cao. Về lâu dài, giống như báo, tạp chí bị đe dọa bởi việc tăng chi phí sản xuất, và việc phát hành hoàn toàn phụ thuộc vào bưu phí đang leo thang. Cho nên, không có một phương tiện truyền thông hiện tại nào xác định được vị trí lý tưởng cho tương lai, và tất cả đều đối đầu với những thử thách rất lớn. Có lẽ điều này lý giải tại sao những người điều hành phương tiện truyền thông đang đổ xô kết hợp và hội tụ.
THE MISSOURI GROUP biên soạn

Nhà báo hiện đại - Tính chính xác, công bằng và khách quan


Dẫu có đổi thay gì thì có hai truyền thống vẫn luôn là cốt lõi. Thứ nhất đó là đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi mọi nhà báo phải chính xác và công bằng. Thứ hai, điều khó giải thích nhưng lại dễ bị công kích, là truyền thống về tính khách quan.
Tổng hòa được hai truyền thống này chính là điều mà các phóng viên và biên tập viên luôn cố gắng thực hiện trong công việc của mình.
Tính chính xác
Bob Woodward – phóng viên, tác giả và biên tập viên của tờ The Washington Post – đã bào chữa tại tòa cho một bài điều tra đăng trên tờ báo của ông. Bài báo này, theo lời ông, là “một phiên bản tốt nhất của sự thật có thể đạt được”.
Một mục tiêu nghe còn to tát hơn nữa chính là cái “sự thật” không cần thêm thắt. Dù bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với lý tưởng, Bob Woodward đã nhận ra thực tế cuộc sống và sự hạn chế của nghề báo. Cho dù hàng thế kỷ tranh luận, các nhà triết học và thần học vẫn chưa thống nhất được “sự thật” là gì. Dẫu cho có sự nhất trí về câu hỏi cơ bản đó đi nữa thì làm sao Giáo hội Công giáo Roma và tổ chức sinh đẻ có kế hoạch lại cùng nhất trí với “sự thật” về việc nạo phá thai, hay một vị tổng thống và đối thủ của ông ta lại cùng nhất trí về “sự thật” của tình trạng kinh tế nước Mỹ?
Trong chuyện làm báo hàng ngày ở Mỹ, những tranh cãi như thế thường nảy sinh trong các phe phái ở tất cả các khía cạnh, trên các bài xã luận và các bài phê bình. Vai trò của các phóng viên chỉ đơn giản là phát hiện và viết lại sự thật. Vấn đề là chuyện đó hóa ra lại không đơn giản như vậy.
Đôi khi thu thập sự thật lại rất khó khăn. Một hội đồng tuyển chọn hiệu trưởng mới cho một trường đại học thông báo rằng danh sách ứng viên đã được rút lại còn năm người, nhưng tên của năm vị đó thì không được nêu ra. Các thành viên hội đồng đã hứa là phải giữ bí mật. Bạn làm thế nào để biết được tên năm ứng viên đó? Bạn có nên thử không?
Nhiều khi cũng khó mà biết sự thật có ý nghĩa gì. Một tòa án tối cao tiểu bang từ chối xử vụ các nhà lập pháp nghi ngờ tính hợp hiến của việc giới hạn chi tiêu của bang này. Tòa chỉ nói rằng không hề có “tranh cãi đáng phân xử”. Điều này có ý nghĩa gì? Ai thắng? Phán quyết này là tin tốt hay tin xấu, và giành cho ai?
Nhiều khi cũng chẳng biết đâu là sự thật. Sau cả năm trời nghiên cứu, một ủy ban của tổng thống cho rằng không có nạn đói hoành hành ở nước Mỹ. Kết luận này có phải là sự thật không? Hay sự thật chỉ là những gì mà ủy ban này đã nói? Và làm thế nào bạn có thể xác định là ủy ban này có đúng hay không?
Nghề báo hàng ngày vẫn tồn tại nhiều rắc rối. Thông thường, khi làm phóng viên thì bạn chỉ có vài giờ, nhiều thì vài ngày, để nghiên cứu càng nhiều sự kiện càng tốt. Dù thời gian rất hạn hẹp, bạn vẫn có thể tích lũy thông tin thành một câu chuyện khoảng 2.000 chữ để rồi nghe thông báo là chỉ có đủ chỗ đăng hay thời lượng phát sóng cho khoảng 1.000 chữ hoặc ít hơn. Báo trực tuyến – loại hình truyền thông mới – cung cấp thêm nhiều diện tích đăng bài nhưng không có thêm thời gian cho việc tường thuật.
Khi bạn quan tâm đến những thực tế và hạn chế này, bạn có thể nhận thấy rằng việc đạt được “một phiên bản tốt nhất của sự thật” thôi quả là thử thách đối với bất kỳ nhà báo nào.
Làm sao bạn biết là đạt được mục đích? Hiếm khi có một câu trả lời cụ thể. Tuy nhiên, có hai câu hỏi mà những nhà báo có trách nhiệm nên đặt ra cho mọi bài viết trước khi tự hài lòng, đó là: Nó có chính xác không? Nó có công bằng không?
Sự chính xác là yếu tố quan trọng nhất đối với bất kỳ bài báo nào, lớn hay nhỏ, dài hay ngắn. Phải chính xác trong từng chi tiết. Mọi cái tên phải được phát âm thật chuẩn xác, mọi câu trích dẫn phải đúng với những gì đã được nói, mọi dãy số phải được cộng lại. Và chừng đó vẫn còn chưa đủ. Bạn có thể lấy các chi tiết đúng và vẫn gây ngộ nhận nếu bạn không đặt đúng bối cảnh. Cùng một câu nói có thể có nhiều ý nghĩa khác nhau phụ thuộc vào tình huống nó được phát ngôn và lối diễn đạt trong khi nói. Hoàn cảnh và mục đích cũng ảnh hưởng đến hành động. Bạn sẽ không bao giờ có “phiên bản tốt nhất của sự thật” nếu không tường thuật chính xác các chi tiết và bối cảnh.
Bạn cũng không tiếp cận được sự thật nếu thiếu sự công bằng. Chính xác và công bằng liên quan đến nhau, nhưng chúng không là một. Đối với tin tức, có nhiều quan điểm khác nhau để nhìn nhận một sự kiện hay vấn đề. Mỗi quan điểm sẽ có thể lý giải khác nhau về cái gì đang diễn ra và nó có ý nghĩa gì. Nghề báo cũng như thể thao, ngay cả với phóng viên cẩn thận nhất hay vận động viên giỏi nhất cũng có khi phạm sai lầm.
Sự công bằng trong nghề báo đòi hỏi bạn phải tường thuật sự kiện dưới nhiều góc nhìn khác nhau. Hiếm khi chỉ có một, thường là hai hoặc hơn. Sự công bằng đòi hỏi bạn phải dành cho kẻ đang bị công kích hoặc nghi vấn tính chính trực trong bài báo của mình thật nhiều cơ hội để họ có thể phản hồi. Trên hết, sự công bằng đòi hỏi bạn phải nỗ lực để tránh thành kiến trong cách tường thuật và bài viết của mình.
Định góc độ cho tin tường thuật
Quan điểm hay góc nhìn mà bạn sử dụng để tường thuật sẽ định ra góc độ cho tin được tường thuật. Chẳng hạn, những bài báo về những thay đổi xã hội sâu rộng tràn đầy các trang báo và màn hình những năm 1960 có thể được tường thuật theo góc độ của những trật tự được thiết lập hoặc theo các mục tiêu và cá nhân ủng hộ sự thay đổi. Tùy thuộc vào góc nhìn, hai bài viết về phong trào quyền công dân sẽ khác nhau về giọng điệu và thậm chí cả nội dung.
Do ảnh hưởng của trào lưu báo chí công dân, việc chọn góc nhìn vấn đề đã trở thành trung tâm thảo luận của nghề báo. Quan điểm chung của báo chí công dân là phải xem xét chính trị và đời sống công chúng một cách rộng rãi hơn, từ quan điểm của một công dân hơn là của một nhà lãnh đạo. Những bài báo dựa trên quan điểm công dân như thế sẽ thay đổi không chỉ các bài viết về chiến dịch vận động chính trị mà còn là các bài về sự phát triển kinh tế, tranh chấp quy hoạch đất đai, hay hầu như mọi vấn đề. Những bài báo viết từ góc nhìn của một cử tri sẽ khác hẳn những bài viết theo góc nhìn của ứng cử viên.
Mỗi câu chuyện đều có thể nhìn từ nhiều góc độ. Không có góc độ nào là hoàn hảo. Mỗi phóng viên nên chọn góc độ nào có thể phản ánh câu chuyện đầy đủ và trung thực nhất.
Tin khách quan
Những quy tắc mà các nhà báo chính thống tuân thủ nhằm đạt được “một phiên bản tốt nhất của sự thật” thường được đúc kết thành tính khách quan. Tính khách quan được các nhà báo, sinh viên, giảng viên ngành báo chí ở Mỹ xem như một nguyên tắc nghề nghiệp. Nó được các nhà báo hàng đầu đề cao như là một lý tưởng cốt yếu, dù không dễ đạt được. Ngược lại, những người phê phán như nhà xã hội học Gaye Tuchman đã xem tính khách quan chỉ là “một nghi thức chiến lược” nhằm che giấu vô số tội lỗi nghề nghiệp trong khi đưa tin không kỹ lưỡng và gây ngộ nhận.
Michael Schudson, trong tác phẩm kinh điển Discovering the News (Khám phá Tin tức), đã dò theo sự phát triển của nhu cầu báo chí khách quan từ thời kỳ hậu Thế chiến I, khi các học giả và các nhà báo đều dựa vào các phương pháp và ngôn ngữ của khoa học để tìm hiểu cái thế giới đang bị đảo lộn bởi ảnh hưởng của Freud và Marx, bởi sự xuất hiện những thế lực kinh tế mới và sự suy thoái những giá trị truyền thống. Tính khách quan trông cậy vào những sự kiện có thể quan sát được, nhưng nó cũng là phương pháp giúp các bài tường thuật bám sát hiện thực và không bị tác động bởi các định kiến của nguồn tin, tác giả hay độc giả. Bản thân tính khách quan là một giá trị, một lý tưởng.
Schudson viết: “Các nhà báo đặt niềm tin vào tính khách quan, tới mức họ tin bởi vì họ muốn tin, cần phải tin, do bị thúc bách bởi khao khát của một con người bình thường muốn tìm kiếm lối thoát cho lòng hoài nghi và thái độ thụ động đã hằn sâu trong nhận thức”.
Schudson và Robert Karl Manoff – hai người đã tuyển chọn các bài tiểu luận quan trọng về nghề báo thành cuốn Reading the News – đã mô tả sự mâu thuẫn lý tưởng báo chí khách quan và cách thực thi nghề báo:
Phóng viên không chỉ thuật lại câu chuyện mà còn tạo ra nó.
Dĩ nhiên, điều này là tối kỵ trong nghề báo. Bạn chỉ tường thuật, chứ bạn không tạo dựng. Bạn đưa ra các câu hỏi AI?, CÁI GÌ?, KHI NÀO?, ở ĐÂU?, TạI SAO? và NHƯ THế NÀO?, lắng nghe câu trả lời, và trở về nhà. Tuy nhiên, làm sao phóng viên biết được khi nào cần nêu những câu hỏi cơ bản của báo chí ấy, và hỏi ai? Làm sao để phóng viên biết được khi nào câu hỏi sẽ được trả lời. Ai được coi là cái “ai” có giá trị thông tin? Sự việc hay dữ kiện nào sẽ là câu trả lời thích đáng cho câu hỏi “cái gì”? Ngay cả với những câu hỏi đơn giản nhất, “khi nào”, “ở đâu”, làm sao phóng viên biết được liệu câu trả lời có đầy đủ không?
Tóm lại, những điều răn dạy trông có vẻ đơn giản của nghề báo đã định sẵn cách thức truy vấn, phương pháp diễn dịch những câu trả lời, một hệ thống các quy tắc chọn lựa đối tượng và vấn đề cần hỏi...
Những nhà báo giỏi nhất luôn ghi nhớ những điểm hạn chế này, cho dù điều đó hiếm khi được nêu ra trong tòa soạn. Điều mà một xã hội tự do cần ở các nhà báo chính là “sự giải thích trung thực, toàn diện, thông minh các sự kiện của thời đại trong một bối cảnh làm cho các sự kiện ấy có ý nghĩa”. Mục đích của chương này là giúp bạn biết các nhà báo hôm nay và tương lai hiểu rõ nhu cầu đó như thế nào, làm sao họ đáp ứng được điều đó, và sự phức tạp của nhiệm vụ này. Phần còn lại cuốn sách sẽ giúp bạn phát triển các kỹ năng cần trang bị để đương đầu với thử thách. Hiếm có thử thách nào lại quan trọng hay đem lại nhiều khích lệ như nghề báo.
THE MISSOURI GROUP biên soạn