15/9/08

KINH TRÁI TIM TUỆ GIÁC VÔ THƯỢNG

KINH TRÁI TIM TUỆ GIÁC VÔ THƯỢNG
(PRAJÑĀPĀRAMITĀSŪTRA-HRDAYA-SÙTRA)

Khải Thiên
(Dịch và chú giải / bản mới - 2007)

~oOo~

Nội Dung

Lời Dẫn

Phần một
Nguyên Bản và Dịch Bản

I. Tâm Kinh nguyên Bản Sanskrit
II. Tâm Kinh- bản Hán dịch của Huyền Trang
III. Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh (Ngữ âm Hán -Việt)
IV. Tâm Kinh-bản Anh Ngữ
V. Tâm Kinh (bản dịch tiếng Việt)
Chú thích đặc biệt của bản dịch tiếng Việt

Phần hai
Cấu trúc Kinh Trái Tim
I. Cấu Trúc
II. Phân Tích

Phần Ba
Thông Điệp

I. Thông điệp từ Kinh Trái Tim (bản mới-2007)

Phần Bốn
Nghi thức thọ trì Kinh Trái Tim

Phụ Lục

I. Message from the Heart Sutra (American version-2007)
II. Words from Heart of Wisdom


=====xxx=====

Lời dẫn

Bản kinh được dịch và chú giải dưới đây tiếng Phạn (Sanskrit) gọi là Prajñāpāramitā Hrdaya Sūtra; Hán dịch: Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh; Việt dịch: kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng; gọi tắt là Kinh Trái Tim hay Tâm Kinh (Heart Sutra).

Về mặt lịch sử, Bát Nhã là bộ kinh đầu tiên truyền bá tư tưởng Ðại thừa (Mahāyāna) với giáo thuyết trung tâm là Tánh Không (Śūnyatā). Theo các nghiên cứu hiện đại, bản kinh cổ nhất của văn hệ Bát Nhã là bản Aşţasāhasrikā Prajñāpāramitā (Bát Nhã Bát Thiên Tụng), gồm tám ngàn câu kệ (ślokas) hay còn gọi là Tiểu Phẩm Bát Nhã, xuất hiện khoảng 100 năm trước Tây lịch. Đến khoảng đầu thế kỷ thứ nhất Tây lịch, kinh Bát Nhã đã từ từ được mở rộng thành Đại Phẩm Bát Nhã với ba bản khác nhau, bao gồm bản 100.000 câu, bản 25.000 câu, và bản 18.000 câu. Nghiên cưú của Eward Conze cho thấy rằng nội dung chính của ba bản trên đều giống nhau, chỉ khác nhau ở những chi tiết được lặp lai.[i] Đặc biệt là, trong số các bản Bát Nhã, có những bản được tinh lược rất ngắn; hai trong số các bản ngắn nhất và xuất hiện sớm nhất (khoảng trước thế kỷ thứ IV Tây lịch) là bản Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra) và Kim Cương Bát Nhã (Diamond Sutra). Nghiên cứu của Edward Conze xác định rằng sự tập thành của kinh Bát Nhã được diễn ra theo một trình tự: trước hết là Bát Nhã 8.000 câu (ślokas), tiếp theo sau là Bát Nhã 10.000 câu, 18.000 câu, 25.000 câu, và 100.000 câu; sau đó Bát Nhã lại được tinh giản thành 2.500 câu, 700 câu, 500 câu, 300 câu (kinh Kim Cương), 150 câu, 25 câu (Tâm kinh) và sau cùng chỉ có một âm tiết “A”. Sự tập thành kéo dài này hoàn tất vào khoảng năm 700 Tây lịch (A.D.)[ii]

Lịch sử tư tưởng của văn học Bát Nhã đã được nghiên cứu rất phổ biến, đáng chú ý nhất là những nghiên cứu của Thiền sư Suzuki và nhà Phật học nổi tiếng Edward Conze[iii]. Và như đã đề cập, tinh yếu của hệ tư tưởng này được gói trọn trong bài Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra), trong đó bản dịch được hâm mộ nhất đối với Phật tử Á Đông là bản của ngài Huyền Trang (dịch vào năm 649)[iv], dài không hơn 300 chữ, hay nói chính xác hơn là 262 chữ. Bản dịch này là bản kinh thuộc lòng của Phật tử ở các nước Viễn Ðông châu Á và nó cũng được lưu hành rất phổ biến tại các cộng đồng Phật giáo ở châu Âu và Bắc Mỹ với tên gọi quen thuộc là Heart Sutra, tức là Kinh Trái Tim. Theo Eward Conze, “Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra), một trong những văn bản tâm linh hùng vĩ nhất của nhân loại, là một tái thẩm định về bốn Chân lý, được minh giải dưới ánh sáng ưu việt của Tánh Không luận.”[v]

Bản Tâm kinh này hiện nay đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Bản Anh ngữ đầu tiên do Max Muller dịch, in năm 1884; bản thứ hai do Shaku Hannya dịch, in năm 1923; bản dịch lần thứ ba do Thiền sư Suzuki dịch, và được in trong bộ Thiền Luận (Essay in Zen Buddhism) vào năm 1934. Và đến năm 1948, Eward Conze công bố thêm một bản dịch mới. Trên đây là các bản dịch nổi tiếng của các học giả có thẩm quyền chuyên môn về Phật học.

Về nội dung, Tâm kinh được xem như là “trái tim” của toàn bộ tư tưởng Phật giáo Đại thừa được nói ra bởi Tuệ giác Vô thượng của Phật, nhằm dắt dẫn chúng sinh đi vào thực tại–giải thoát. Do đó, mặc dầu bản kinh dài không qúa 300 âm tiết nhưng nó đã đề cập hầu hết các giáo lý truyền thống như bốn Thánh đế, mười hai Nhân duyên, năm Uẩn .v.v., đặc biệt là những giáo lý truyền thống đó được soi sáng bằng con mắt của Tánh Không.

Nói về sự kỳ vĩ của Tánh Không, người viết đã nhấn mạnh rằng: “Ðiều độc nhất vô nhị ở đây là sự lôi kéo về trần thế này và con người này một trú xứ nhân gian Tịnh độ... mà chúng ta cứ những tưởng trú xứ của niềm phúc lạc vô biên đó không có ở đây, ở mảnh đất gổ ghề, cấu nhiễm của những sinh linh đang thất thểu trong vui buồn, say tỉnh với bao nỗi khổ trầm luân. Dưới ánh sáng của Tánh Không, lần đầu tiên chúng ta biết rằng quê hương của Niết bàn là trần thế.”[vi]

Nội dung của tập sách mà bạn đang cầm trên tay không phải là một nghiên cứu đúng nghiã về Tánh Không luận hay về tư tưởng và văn học Bát Nhã, mà trái lại chỉ là một sự chuyển ngữ từ Hán văn sang Việt văn dựa trên nguồn cảm hứng tâm linh mà người viết muốn diễn đạt bằng ngôn ngữ ‘quê hương’ của mình. Bên cạnh đó, người viết cũng đưa ra một vài ghi chú quan trọng về bức thông điệp của Tâm Kinh. Tuy Nhiên, để tránh những ngộ nhận về ngôn từ khi đọc bản dịch này, độc giả nên tham khảo bản gốc tiếng Phạn và Hán được đính kèm. Ở đây, nội dung của tập sách này được bố cục thành bốn phần: Phần một: Nguyên bản và một số bản dịch Bát Nhã Tâm Kinh; phần hai: Cấu trúc của kinh; Phần ba: thông điệp của kinh, và phần bốn: nghi thức thọ trì kinh. Trong lần tái bản này, một vài chi tiết được sửa chửa và bổ sung so với bản in lần đầu mười năm trước đây, in vào năm 1997.

Sau cùng, ước mong bản dịch và những ghi chú về Tâm kinh này, một cách nào đó, giúp người đọc khơi gợi nguồn thiêng cảm nội tại và khát vọng thể nghiệm đời sống “xa rời cuồng si mộng tưởng”, một đời sống của thực tại-giải thoát. Nguyện đem công đức này, hướng về khắp muôn loài, cầu cho muôn chúng sinh, chóng viên thành Phật đạo.

Los Angeles, Mùa An Cư 2007

Khải Thiên



Phần Một

I. Tâm Kinh nguyên Bản tiếng Phạn

prajñāpāramitāhṛdayasūtram

[saṃkṣiptamātṛkā]

// namaḥ sarvajñāya //

āryāvalokiteśvarabodhisattvo gambhīrāṃ prajñāpāramitācaryāṃ caramāṇo vyavalokayati sma / pañca skandhāḥ, tāṃśca svabhāvaśūnyān paśyati sma //

iha śāriputra rūpaṃ śūnyatā, śūnyataiva rūpam / rūpān na pṛthak śūnyatā, śūnyatāyā na pṛthag rūpam / yad rūpaṃ sā śūnyatā, yā śūnyatā tad rūpam //

evam eva vedanāsaṃjñāsaṃskāravijñānāni //

iha śāriputra sarvadharmāḥ śūnyatālakṣaṇā anutpannā aniruddhā amalā na vimalā nonā na paripūrṇāḥ / tasmāc chāriputra śūnyatāyāṃ na rūpam, na vedanā, na saṁjñā, na saṃskārāḥ, na vijñānāni / na cakṣuḥśrotraghrāṇajihvākāyamanāṃsi, na rūpaśabdagandharasaspraṣṭavyadharmāḥ / na cakṣurdhātur yāvan na manodhātuḥ //na vidyā nāvidyā na vidyākṣayo nāvidyākṣayo yāvan na jarāmaraṇaṃ na jarāmaraṇakṣayo na duḥkhasamudayanirodhamārgā na jñānaṃ na prāptir nābhisamayas tasmād aprāptitvāt//

boddhisattvasyaprajñāpāramitām āśritya viharato’ cittāvaraṇaḥ/ cittāvaraṇanāstitvād atrasto viparyāsātikrānto niṣṭhanirvāṇaḥ / tryadhvavyavasthitāḥ sarvabuddhāḥ prajñāpāramitām āśritya anuttarāṃ samyaksaṃbodhim abhisaṃbuddhāḥ

tasmāj jñātavyaḥ prajñāpāramitā mahāmantro mahāvidyāmantro ‘nuttaramantro ‘samasamamantraḥ

sarvaduḥkhapraśamanaḥ satyam amithyatvāt/ prajñāpāramitāyām ukto mantraḥ / tadyathā gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā //

iti prajñāpāramitāhṛdayasūtraṃ samāptam



II. Tâm Kinh- Bản Hán dịch của Huyền Trang


般若波羅蜜多心經

(Taishō No 251)

唐三藏法師玄奘譯



觀自在菩薩。行深般若波羅蜜多時。照見五蘊皆空。度一切苦厄。舍利子。色不異空。空不異色。色即是空。空即是色。受想行識亦復如是。舍利子。是諸法空相。不生不滅。不垢不淨不增不減。是故空中。無色。無受想行識。無眼耳鼻舌身意。無色聲香味觸法。無眼界。乃至無意識界。無無明。亦無無明盡。乃至無老死。亦無老死盡。無苦集滅道。無智亦無得。以無所得故。菩提薩埵。依般若波羅蜜多故。心無罣礙。無罣礙故。無有恐怖。遠離顛倒夢想。究竟涅槃。三世諸佛。依般若波羅蜜多故。得阿耨多羅三藐三菩提。故知般若波羅蜜多。是大神咒。是大明咒是無上咒。是無等等咒。能除一切苦。真實不虛故。說般若波羅蜜多咒即說咒曰

揭帝揭帝 般羅揭帝 般羅僧揭帝菩提僧莎訶。



III. Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh (Ngữ âm Hán -Việt)

1. Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.

2. Xá Lợi tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.

3. Xá Lợi tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.

4. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc, vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc.

5. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng; cứu cánh Niết bàn.

6. Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba la mật đa cố đắc A nậu Ða la tam miệu tam Bồ đề.

7. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề, tát bà ha.”



IV. Tâm Kinh Bản Anh Ngữ

Prajñāpāramitā hrdaya Sūtra

1. The Bodhisattva Avalokitésvara, while engaged in the practice of profound Prajñāpāramitā, perceived that the five aggregates were empty of “self-existence”; thus, he overcame all sufferings and troubles.

2. O Sāriputra, Form does not differ from Emptiness, and Emptiness does not differ from Form; Form is Emptiness, and Emptiness is Form. The same can be said of feelings, conceptions, actions, and consciousnesses.

3. O Sāriputra, the characteristics of the Emptiness of all dharmas are that they are not arising, not ceasing, not defiled, not immaculate, not increasing, and not decreasing.

4. For these reasons, in Emptiness there are no forms, no feelings, no conceptions, no actions, no consciousnesses: no eyes, ears, tongue, body, or mind; no form, sound, odor, taste, touch or mind-object; no eye elements until we come to no elements of consciousnesses; no ignorance and no extinction of ignorance; no old age and death, and no extinction of old age and death; no truth of sufferings, and no truth of the causes of sufferings, of the cessation of sufferings, or of the path. There is no knowledge and no attainment whatsoever.

5. By reason of non-attainment, the Bodhisattva dwelling in Prajñāpāramitā has no obstacles in his mind. Because there are no obstacles in his mind, he has no fear and, going far beyond all perverted views, confusions, and imaginations, reaches the ultimate Nirvāna.

6. All the Buddhas of the past, present, and future, by relying on the Prajñāpāramitā, attain the Supreme Enlightenment.

7. Therefore, one should know that the Prajñāpāramitā is the great incantation, the incantation of great wisdom, the unexcelled incantation, and the equal of the unequalled incantation that is capable of allaying all sufferings, true because it is devoid of falsehood. This is the incantation proclaimed in the Prajñāpāramitā. The incantation is proclaimed as follows: “Gate, gate; pāragate, parasamgate, Bodhi, svāhā!”

(Dựa theo bản dịch của D.T. Suzuki, Garma Chang và E. Conze)



V. Tâm Kinh (bản dịch tiếng Việt)

Kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng

A- Khi tiến sâu (1) vào nguồn mạch của Tuệ giác Vô thượng (2), Người Tỉnh Thức Bình Yên (3) soi sáng như thật rằng tự tính của năm hợp thể (4) đều là Không (5), liền thoát ly mọi khổ ách.

B- Này người con dòng Sari (6), hình thể chẳng khác chân không (7), chân không chẳng khác hình thể; hình thể là chân không, chân không là hình thể; cảm xúc (8), niệm lự (9), tư duy (10) và ý thức (11) đều là như vậy.

C- Này người con dòng Sari, tất cả hiện hữu được biểu thị là Không; nó không sanh, không diệt; không nhơ, không sạch; không tăng, không giảm.

D- Vì thế, này người con dòng Sari, trong Không không có hình thể, không có cảm xúc, không có niệm lự, không có tư duy, không có ý thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý ; không có hình thể, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm (12) và hiện hữu (13). Không có đối tượng của mắt, cho đến không có đối tượng của ý thức; không có minh, không có vô minh; không có sự chấm dứt của minh, cũng không có sự chấm dứt của vô minh; cho đến không có tuổi già và sự chết, cũng không có sự chấm dứt tuổi già và sự chết; không có khổ đau, không có nguyên nhân của khổ đau, không có sự chấm dứt khổ đau, và không có con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau (15); không có trí giác (16) cũng không có sự thành tựu trí giác.

E- Người Tỉnh Thức Bình Yên, do không sở đắc nên sống an lành trong Tuệ giác Vô thượng và thoát ly tất cả chướng ngại. Và rằng, vì không có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xa rời những cuồng si mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.

F- Tất cả chư Phật trong ba đời (17) đều nương vào Tuệ giác Vô thượng mà thành tựu (18) chánh giác.

G- Vì thế, nên biết rằng Tuệ giác Vô thượng là sức thần (19) kỳ vĩ, là sức thần của trí tuệ vĩ đại, là sức thần cao tuyệt, là sức thần tối hậu, vô song; có thể trừ diệt tất cả khổ đau. Sức thần thoắt sinh từ Tuệ giác Vô thượng này là sự thật, là chân lý. Sức thần có năng lực tối thượng đó được tuyên nói trong kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng rằng:

“Ði qua, đi qua,
Ði qua bờ bên kia,
Ðã đi qua đến bờ bên kia, Svāhā!”


Chú thích đặc biệt của bản dịch tiếng Việt:

(1) Cụm từ “tiến sâu” trong bản dịch này mang ý nghĩa: sự “thể nhập” hay “thể nghiệm” của dòng tâm thức trong “thiền quán”. Trạng thái của dòng tâm thức này dĩ nhiên được vận hành trên căn bản của tâm thức an định.

(2) “Nguồn mạch của Tuệ giác Vô thượng” được dịch từ cụm từ “thâm Bát nhã-profound Prajñāparamitā”; ở đây, “trí tuệ bên kia bờ” hay “trí tuệ đáo bỉ ngạn” — trí tuệ (prajñā), bên kia bờ (pāramitā) có thể được hiểu là “tuệ giác vô thượng”. Vì lẽ, chỉ có hàng đại Bồ tát từ Bát Địa (trong Thập địa) trở lên mới phát huy trí tuệ đặc biệt này. Từ “nguồn mạch” được thêm vào trong bản tiếng Việt để nhấn mạnh yếu tố “thẳm sâu” của tuệ giác, một loại tuệ giác đầu nguồn mang tính cách uyên nguyên và vô phân biệt.

(3) “Người Tỉnh Thức Bình Yên” trong nguyên văn của bản kinh là Bồ Tát Avalokitésvara (Bodhisattva Avalokitésvara). Ở đây, Avalokitésvara được dịch theo hai cách: Quán Thế Âm và Quán Tự Tại. Trong bản dịch chữ Hán của Ngài Huyền Trang, danh từ này được dịch là Quán Tự Tại. Từ kép Sanskrit này được kết hợp bởi: Avalokita có nghĩa là quán, chiếu kiến, hay nhìn khắp nơi; và isvara có nghĩa là chúa tể, hay bậc siêu nhân có quyền năng hành xử một cách tự do. Vấn đề này cũng được bàn đến trong Bát Nhã Tâm Kinh Tán của Viên Trắc (Wonch’uk). Trong bản tiếng Việt, danh từ này được dịch là “Người Tỉnh Thức Bình Yên” nhằm mô tả trạng thái “an tịnh” trong tâm thức của Bồ Tát, người đang trú trong thiền định và kiến chiếu đương thể (năm hợp thể) tức không.

(4) “Năm hợp thể” là năm uẩn (skandhas).

(5) “Không” tức là Śūnyatā.

(6) Mẹ của Sāriputra là người rất thông minh nên có hiệu là Sari. Trung Hoa dịch chữ Sariputra là Xá Lợi Tử, hay Xá Lợi Phất nghĩa là, đứa con dòng Xá Lợi (Sari). Do đó, ở đây dịch là: Người con dòng Sari, lối dịch này đã được sử dụng trong bản dịch “Kinh Ruột Tuệ Giác Siêu Việt” của Thi Vũ, do Trí Quang giới thiệu, xuất bản năm 1973, tại Paris.

(7) “Hình thể và chân không” là hai từ biểu thị cho sắc và không. Cả hai từ này đều mang tính cách giả định. Ví dụ: khi nói đến sắc tức là nói đến một hình thể, một vật hữu hình, một vật chất…mà nó đối nghịch lại với không: như chân không, không hình thù, không hiện hữu hay không thực có. Dĩ nhiên, không trong đối lập với sắc ở đây được hiểu là giả định; nhưng Không trong tinh yếu của Bát Nhã là Śūnyatā, nó vượt lên trên mọi phân biệt, đối lập giữa sắc và không.

(8) “Cảm xúc” tức là Thọ uẩn (vedanayā).

(9) “Niệm lự” là một cách diễn dịch về Tưởng uẩn (samjñā: những niệm lự hay các ấn tượng của tri giác).

(10) “Tư duy” tức là Hành uẩn (samskāra-mental formations). Tư duy là yếu tố căn bản trong đời sống tâm thức, nó nổi bật trong mọi sự tạo tác và tựu thành của nghiệp (karmic formations).

(11) “Ý thức” (vijñāna) là Thức uẩn, bao gồm cả ba yếu tố: cảm xúc (thọ), niệm lự (tưởng), và tư duy (hành).

(12) “Xúc” (sparśa) trong (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Xúc là tiếp xúc, giao thoa giữa các căn và trần.

(13) Hiện hữu được dùng đồng nghĩa với pháp (dharma).

(14) Vô minh (avidyayā), nguồn gốc của sự khổ đau.

(15) Tứ đế (Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Ðạo đế).

(16) Trí giác dịch từ "Vô trí diệc vô đắc".

(17) Ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai.

(18) Thành tựu ở đây có nghĩa là đã giải thoát khỏi thế giới sinh tử của nhị nguyên.

(19) “Sức thần” tức là năng lực phi thường được sinh khởi linh ngữ hay thần chú (mantra).

Phần Hai

Cấu Trúc Của Kinh Trái Tim



I. Cấu Trúc

Bản Tâm kinh lời Việt trên được chia thành bảy phân đoạn, biểu thị cho con đường tu tập của Bồ Tát khởi đầu bằng thiền quán, và được trình bày thứ tự như sau:

1-Phân đoạn một: Giới thiệu tổng quát: a- Chủ thể quán sát; b- Trí tuệ quán sát ; c- Ðối tượng quán sát, và d- Tác năng hay hiệu lực của trí tuệ quán sát.

2- Phân đoạn hai: Giới thiệu về Tánh Không qua hai phạm trù hiện tượng và bản thể.

3- Phân đoạn ba: Giải minh về bản Tánh Không giữa những khái niệm phân biệt.

4- Phân đoạn bốn: Minh thị Bản Tánh Không vượt lên trên 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới và 12 nhân duyên và 4 Thánh đế bằng hình thức phủ định liên hồi.

5- Phân đoạn năm: Giới thiệu về năng lực của Tuệ giác Vô thượng và sự thành tựu đời sống “xa rời cuồng si mộng tưởng” hay đời sống “Niết bàn”.

6- Phân đoạn sáu: Xác chứng về Tuệ giác Vô thượng qua ba đời chư Phật.

7- Phân đoạn bảy: Minh thị về sức thần (thần lực) của Tuệ giác Vô thượng đối với sự diệt trừ khổ đau hay thăng chứng Niết bàn. Và, kết thúc, Tâm kinh tuyên câu linh ngữ: “Gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā!”

II. Phân Tích

A. Phân đoạn một:

“Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác Vô thượng, Người Tỉnh Thức Bình Yên soi sáng như thật rằng tự tính của năm hợp thể đều là Không, liền thoát ly mọi khổ ách.”

Ðoạn kinh mở đầu này chỉ có một câu duy nhất, cũng là câu luận đề (thesis statement) của toàn bộ bản kinh. Và sau khi đọc hết toàn bản kinh ta sẽ thấy rằng tất cả nội dung của nó được hàm chứa trong câu luận đề này một cách trọn vẹn và chặt chẽ. Ở đây, luận đề của kinh bao gồm: (1) Chủ thể quan sát (Bồ Tát Avalokitésvara), (2) Ðối tượng quan sát (năm uẩn hay năm hợp thể), (3) Cơ sở quan sát (trí tuệ Bát nhã) và (4) Tác năng hay hiệu lực của trí tuệ quan sát (soi sáng tự tính của năm hợp thể là Không, và thoát ly mọi khổ ách)

(1) Chủ thể quan sát:

Bồ Tát Avalokitésvara được dịch theo hai cách: Quan Thế Âm và Quán Tự Tại, cả hai danh từ này đều chỉ cho một vị Bồ Tát. Như đã đề cập, danh từ Avalokitésvara, trong Tâm Kinh, được dịch là Quán Tự Tại nhằm nhấn mạnh “quyền năng vô ngại” của vị đại Bồ tát dùng phương tiện quán chiếu Bát Nhã để soi sáng (kiến chiếu) đương thể tức không một cách tự do. Mặc dù vậy, theo từ nguyên, Quán Thế Âm hay Quán Tự Tại đều được dịch từ một danh từ duy nhất đó là Avalokitésvara. (Xem chú thích 03.) Trong nỗ lực Việt hóa, danh từ “Quán Tự Tại” được dịch là “Người Tỉnh Thức Bình Yên”. “Tỉnh thức” và “bình yên” ở đây biểu thị cho trạng thái “an tịnh” của thiền định.

(2) Ðối tượng quan sát:

Ðối tượng quan sát ở đây là năm uẩn hay năm hợp thể (aggregates) gồm: hợp thể của sắc (thuộc thế giới vật lý), của thọ, tưởng, hành và thức (thuộc tâm lý), nói chung là con người và thế giới sự vật hiện tượng (The world of phenomena).

(3) Cơ sở quan sát:

Ở đây, cơ sở dùng để quan sát là trí tuệ Bát nhã (Tuệ giác Vô thượng), hay trí tuệ thoát ly nhị nguyên; trực nhận thực tại như là chính nó (to their appearances as they really are). Kinh gọi là trí tuệ bên kia bờ: Trí tuệ (prajñā), Bên kia bờ (pāramitā).

(4) Tác năng của trí tuệ quan sát:

Tác năng của trí tuệ quan sát trước hết được xác định ở hai điểm ngay trong câu luận đề của kinh: a) “Hành thâm Bát nhã” (engaged in the practice of profound Prajñāpāramitā) và b) “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không” (perceived that the five aggregates are empty of self-existence). Mối quan hệ nhân quả được thể hiện rất rõ ở đây là khi Bồ Tát “Hành thâm Bát nhã” thì người sẽ “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không” và do đó được “thoát ly mọi khổ ách” (overcame all sufferings and troubles). Như vậy, tác năng hay hiệu lực của trí tuệ quan sát ở đây là thực tại-giải thoát. Cũng nên lưu ý rằng, mệnh đề “độ nhất thiết khổ ách” là phần được thêm vào trong bản dịch.

B. Phân đoạn hai:

“Này người con dòng Sari, hình thể chẳng khác chân không, chân không chẳng khác hình thể. Hình thể là chân không, chân không là hình thể; cảm xúc, niệm lự, tư duy và ý thức đều là như vậy.”

Phân đoạn này giới thiệu về Tính Không qua hai phạm trù: hiện tượng (phenomenon) và bản thể (noumenon). Về mặt hiện tượng, kinh giả định bằng hai hiện hữu (dharma) đối lập: sắc (hình thể) và không (chân không—không hình thù và không tướng trạng). Dựa vào hai phạm trù giả định này, kinh minh thị sự đồng nhất của bản thể: “sắc chẳng khác không và ngược lại không chẳng khác sắc; sắc là không và không là sắc”. Có thể lấy thí dụ về hình ảnh của sóng và nước để minh họa cho hai phạm trù sắc và không. Về mặt hiện tượng, sóng và nước là hai biểu hiện hầu như khác nhau, nhưng về mặt bản thể, sóng là hiện thân của nước, hay nói khác đi, sóng chính là nước. Ở đây không có khác biệt nào trong bản chất của sóng và nước. Đây là cơ sở để nhận thức về “thực tính-vô tính” của năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, và thức).

C. Phân đoạn ba:

“Này người con dòng Sari, tất cả hiện hữu được biểu thị là Không; nó không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không tăng, không giảm.”

Phân đoạn này giải minh bản tính Không hay còn gọi là “thực tính-vô tính” của hiện hữu (dharmas) giữa những khái niệm phân biệt, bao gồm con người và thế giới sự vật hiện tượng. Bản chất của con người và thế giới vốn không có một ngã thể độc lập, chúng là hiện hữu của duyên sinh; do đó, từ trong thâm sâu, cái mà gọi là tự tính của hiện hữu thực chất là “vô tính” hay “Không có tự tính”. Nói khác đi, bản chất của tất cả hiện hữu là không có một ngã thể (entity) độc lập, tuyệt đối. Vì vậy, chuyện sinh diệt, nhơ sạch, tăng giảm ở đây là do ý niệm phân biệt của con người giả định mà thôi; hiện hữu hay các pháp vốn không có những đặc tính đó. Ðiều này được giải thích rõ qua: (i) giáo thuyết của Trung Quán (Mādhyamika) với các mối liên hệ giữa “không, giả danh, và trung đạo”; hoặc là (ii) ba tự tính của triết học Duy thức (Vijñapati-mātratā-vāda): 1- Tự tính giả lập (parikalpita - svabhāva): hiện hữu vốn không thật nên không thể được xem như là sinh diệt, nhơ sạch, tăng giảm. 2- Tự tính tùy thuộc (panratantra svabhāva), hiện hữu là do duyên sinh nên không thể nói là có sinh diệt, nhơ sạch, tăng giảm. 3- Tự tính tuyệt đối (prinispanna-svabhāva), hiện hữu của các pháp là “như thế” (tathagata), vốn thoát ly ngoài ý niệm nhân, ngã nên không thể nói đến sinh diệt, nhơ sạch, tăng giảm.

D. Phân đoạn bốn:

“Vì thế, này người con dòng Sari, trong Không không có hình thể, không có cảm xúc, không có niệm lự, không có tư duy, không có ý thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; không có hình thể, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm và hiện hữu; không có đối tượng của mắt cho đến không có đối tượng của ý thức; không có minh, không có vô minh; không có sự chấm dứt của minh, cũng không có sự chấm dứt của vô minh; cho đến không có tuổi già và sự chết, cũng không có sự chấm dứt của tuổi già và sự chết; không có khổ đau, không có nguyên nhân của khổ đau, không có sự chấm dứt khổ đau và không có con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau; không có trí giác cũng không có sự thành tựu trí giác.

Nội dung của phân đoạn này, Tâm kinh giải thích về “vô tự tính” hay “bản tính không” thông qua sự phủ định các pháp căn bản: 5 uẩn (skandhas): Sắc (hình thể) gồm nội sắc (thân thể vật lý) và ngoại sắc (thế giới sự vật hiện tượng). Nội sắc bao gồm: cảm xúc (cảm thọ), niệm lự (tưởng), tư duy (hành) và ý thức. Kế đến, Tâm kinh nói về các xứ (ayatanas), nơi sản sinh ra các tác nghiệp. Sáu xứ bao gồm: 6 nội xứ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) và 6 ngoại xứ (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp [hay hiện hữu]), cộng chung lại thành 12 xứ. Do các hoạt động giao tiếp giữa sáu nội xứ (chủ thể) và sáu ngoại xứ (đối tượng) nên hình thành sáu thức (của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), gọi chung là 18 giới (dhatus), tức 18 nền tảng của hiện hữu. Nương tựa vào 5 uẩn (hợp thể) và 18 giới mà 12 nhân duyên (vô minh, hành, thức, danh-sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão - tử) xoay tròn theo nguyên tắc của Bốn Thánh đế (khổ, tập, diệt, đạo) theo hai hướng, hoặc lưu chuyển (từ tập đế đến khổ đế) hoặc hoàn diệt (từ đạo đế đến diệt đế).

Điểm chính của phân đoạn này là ở chỗ, Kinh dùng hình thức phủ định liên hồi của nó để cắt nghĩa khái niệm “vô trí diệc vô đắc”. Mục tiêu chính của phát biểu nàylà nhằm phủ định bất kỳ sự bám víu (có thể) nào của phân biệt nhị nguyên.

E. Phân đoạn năm:

“Người Tỉnh Thức Bình Yên, do không sở đắc nên sống an lành trong Tuệ giác Vô thượng và thoát ly tất cả chướng ngại. Và rằng, vì không có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xa rời những cuồng si mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.”

Phân đoạn này nói về sức mạnh của Tuệ giác Vô thượng hay là Trí tuệ Bát nhã. Ở đây, điều quan trọng là khi hành giả an trú trong trí tuệ Bát nhã sẽ vượt qua mọi chướng ngại của vô minh, tham ái và chấp thủ. Hay nói khác hơn là với trí tuệ Bát Nhã, hành giả sẽ thấy rõ hiện hữu như là chính nó, nghĩa là tất cả những gì xuất hiện trong tri giác phân biệt của chúng ta đều là vô ngã, vô thường. Do thấy rõ như vậy nên hành giả vượt thoát mọi chướng ngại; và lúc bấy giờ trong tâm hành giả không còn sự hiện hữu nào của sợ hãi và cuồng si mộng tưởng. Một tâm thức tịch tịnh như thế chính là miền Niết bàn cứu cánh. Dưới ánh sáng rực rỡ của trí tuệ Bát nhã, mọi phân biệt nhân ngã đều hóa thành hư ảo và mọi sự bám víu đều được rũ bỏ trong đời sống “viễn ly”. Đây là mục tiêu của Bát Nhã.

F. Phân đoạn sáu:

“Tất cả chư Phật ba đời đều nương vào Tuệ giác Vô thượng mà thành tựu chánh giác.”

Phân đoạn này được xem như là điều xác chứng của Phật về năng lực và sức mạnh vĩ đại của Tuệ giác Vô thượng qua truyền thống giác ngộ của chư Phật ở quá khứ, hiện tại, và vị lai. Đây cũng là lý do tại sao trong văn học Bát Nhã nhấn mạnh rằng “Bát Nhã là mẹ của chư Phật.”

G. Phân đoạn bảy:

“Vì thế, nên biết rằng Tuệ giác vô thượng là sức thần kỳ vĩ, là sức thần của trí tuệ vĩ đại, là sức thần cao tuyệt, là sức thần tối hậu, vô song, có thể trừ diệt tất cả khổ đau. Sức thần thoắt sinh từ Tuệ giác Vô thượng này là sự thật, là chân lý. Sức thần có năng lực tối thượng đó được tuyên nói trong kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng rằng: “Ði qua, đi qua, đi qua bờ bên kia, đã đi qua đến bờ bên kia, svaha!”

Phân đoạn này xác định thêm một lần nữa về sức mạnh của năng lực trí tuệ, có thể diệt trừ khổ đau, siêu thoát cho chính mình và tế độ tha nhân. Ðoạn kết của kinh Trái Tim, ta thấy rõ trí tuệ (wisdom) được đề cao như một chân lý tuyệt đối (Absolute truth), và đây quả thực là “trái tim” của tư tưởng Đại thừa Phật giáo, một loại tư tưởng triết học ở bên kia bến bờ của nhị nguyên.

Tóm lại, nội dung của kinh Trái Tim dài không quá 300 chữ, được mở đầu bằng luận đề: “Khi tiến sâu vào nguồn mạch của tuệ giác vô thượng, Người Tỉnh Thức Bình Yên soi sáng như thật rằng tự tính của năm hợp thể đều là Không, liền thoát ly mọi khổ ách”. Và nội dung chính của kinh là triển khai luận đề: “Soi sáng như thật rằng tự tính của năm hợp thể đều là Không” qua sự phân tích tiến trình của 5 uẩn (hợp thể) 12 xứ, 18 giới, 12 nhân duyên và 4 Thánh đế. Rõ ràng, kinh Trái Tim có một giá trị đặc biệt về ngôn ngữ và kết cấu văn pháp, cũng như về nội dung thông điệp (xem Phần Ba) của nó. Có lẽ, đây là lý do tại sao bản kinh rất ngắn này được truyền tụng hàng ngày trong đời sống của người Phật tử. Tuy nhiên, trước viễn cảnh của thực tại, thông điệp của kinh Trái Tim cũng chính là sự thách thức lớn lao của con người. Vì lẽ, đối diện với Tánh Không, chủ thể hoặc là bị cuốn hút vào thế giới hư vô không tận, hoặc là nở nụ trưng bày sức sống luân lưu bất tuyệt của dòng thực tại.

Sóng về xóa dấu chân không
Bỗng dưng thuyền đã bên dòng Chân như.



Phần Ba

Thông Điệp của Kinh Trái Tim



Lời dẫn vào Thông điệp



Bạn thân mến,

Mười năm trước đây khi viết bức thông điệp của Kinh Trái Tim tôi đã viết với tất cả tấm lòng. Lúc đó tôi tự nói với lòng mình rằng, “công việc này qủa thực là liều lĩnh nhưng đầy hứng thú.” Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ cảm thấy hài lòng với bức thông điệp đó. Tôi cũng chẳng hiểu vì sao? Thế rồi mười năm sau, khi đọc lại bản cũ, tôi cảm thấy mình cần phải quay trở về với công việc này thêm một lần nữa. Và đó là sự ra đời của bức thông điệp mà bạn đang cầm trên tay.

Khi viết bức thông điệp này, tôi không mang một ý thức rằng mình đang cắt nghĩa hay giải minh về triết học Bát nhã, mà trái lại, tôi viết từ một cảm xúc mà có lúc muốn bật khóc vì thấm thía cái đẹp tuyệt vời trong lời dạy của Đức Phật. Lời dạy của Ngài đã cứu rỗi tôi, ban cho tôi một sự bình yên nội tại mà không làm sao tôi có thể sánh với cái gì trên thế gian này.

Ước mong rằng, qua bức thông điệp này, chúng ta có thể dìu dắt nhau đi qua những đa đoan thế sự để trở về với miền hạnh phúc-thực tại không bản ngã. Khi vui cũng như khi buồn, xin bạn hãy đọc bức thông điệp này để sưởi ấm cõi lòng nhân gian. Hy vọng, nụ cười của bạn sẽ xóa tan đau khổ của sinh linh khắp trong ba nghìn thế giới.

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

Los Angeles, Mùa an cư 2007.

Khải Thiên





1. Hành Tinh Của Ánh Sáng



Bạn thân mến,

Bức thông điệp mà bạn đang cầm trên tay là “một phần tinh hoa” được rút ra từ Kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng. Khi nói đến “một phần tinh hoa” tôi muốn nói rằng chúng ta đang chiêm nghiệm cái đẹp siêu việt và toàn bích của Bát nhã trong một chiều kích rất giới hạn của một tâm hồn còn nhiều xao xuyến bởi được, mất, hơn, thua…Tuy nhiên, như ánh sáng của mặt trăng, những ai có mắt đều nhìn thấy được; song cái đẹp của ánh sáng đó như thế nào là tùy thuộc ở mỗi đôi mắt hay nói khác hơn là ở mỗi tâm hồn. Chúng ta, ở đây, đang chia sẻ với nhau về bức thông điệp kỳ vĩ của Bát nhã không phải trên bình diện của lý thuyết mà ngay trong đời sống thực tại. Chắc chắn rằng những ai lĩnh hội được bức thông điệp của Bát nhã, cho dù chỉ là một phần rất nhỏ, sẽ có được một đời sống hạnh phúc và bình an thực thụ, một đời sống “xa rời cuồng si mộng tưởng”, một đời sống tự tại giữa trùng điệp khổ đau.

Để có thể đi vào đời sống mầu nhiệm của Bát nhã, trước hết bạn cần phải một lần, hay ít ra là ngay trong giờ phút này, bước vào hành tinh của ánh sáng. Vì lẽ, sinh mệnh của Bát nhã chính là ánh sáng trí tuệ, một thứ ánh sáng vượt lên trên mọi giới hạn của tâm hồn trần thế, hay nói khác hơn đó là ánh sáng trí tuệ (prajñā) ở bên kia bờ (pāramitā). Chính nhờ ánh sáng này mà một “linh hồn” khổ đau có thể được “cứu rỗi”, một đời sống hạnh phúc thực thụ có thể được dựng lập, và trên hết, một tâm thức giác ngộ hy vọng được bừng lên không phải ở đoạn kết của cuộc đời hay ở bên kia thế giới mà ở chính tại mảnh đất này và con người này. Bạn nên nhớ rằng, chúng ta có nhiều loại ánh sáng: ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, ánh sáng của thế giới tự nhiên, ánh sáng sinh học, ánh sáng của khoa học, ánh sáng của tri thức .v.v. Ở đây, ánh sáng trí tuệ bên kia bờ (prajñāpāramitā), gọi tắt là Bát nhã, là một loại ánh sáng tâm linh phi thường, bạn không thể lĩnh hội bằng còn đường lý luận, mà trái lại, bạn chỉ có thể đạt được bằng con đường thể nghiệm và tu tập hằng ngày của chính bản thân. Điều rất quan trọng mà bạn cần phải tỉnh thức ngay bây giờ và ở đây là, đời sống hạnh phúc của thế gian—tình yêu, tiền bạc, danh vọng, địa vị, quyền lực .v.v.— trên thực tế hoàn toàn không có gì được bảo đảm và chắc chắn, bởi vì tất cả đều không ngừng thay đổi theo định luật vô thường. Chỉ một cơn giận hay một sự hiềm tỵ nổi lên trong dòng lưu chuyển của tâm thức, trong tích tắc mọi thứ có thể sẽ hoàn toàn đổi khác; lúc bấy giờ cái mà chúng ta cho là tình yêu, là hạnh phúc… có thể biến thành khổ đau. Vì thế, đời sống hạnh phúc của thế gian sẽ rất bấp bênh nếu như nó không được soi sáng và dắt dẫn bởi ánh sáng của Bát nhã.

Vậy đặc tính ánh sáng của Bát nhã là gì và nó đến từ đâu?

Bát nhã, như đã nói, là một loại ánh sáng của trí tuệ mà tự thân nó vượt lên trên mọi định kiến, cố chấp về “hữu, vô, sinh, diệt, thường, đoạn, đồng, dị, khứ, lai”[vii]. Do dựa vào bản chất siêu việt mọi định kiến, cố chấp nên Bát nhã được định nghiã là “trí tuệ ở bên kia bờ” (trí tuệ đáo bỉ ngạn), hay còn gọi là “trí tuệ-vô ngã”. Cũng vậy, nhờ vào tính siêu việt này mà Bát nhã luôn cưu mang trong chính nó một khả tính vô bờ. Thử lấy bàn tay làm thí dụ. Khi ta đã cầm chắc một vật nào đó trong tay, thì bàn tay tự nó không còn khả năng cầm thêm một vật khác. Ngược lại, khi ta không cầm nắm hay bám víu (thủ trước) bất kỳ cái gì, lúc bây giờ bàn tay của ta sẽ có một khả năng vô hạn, nghiã là nó có thể cầm bất cứ cái gì nó muốn. Đó chính là ý nghiã và khả tính của sự không bám víu (vô thủ trước). Tương tự như thế, khi một tâm thức không bám víu hay không bị chi phối bởi tham, sân, chấp ngã, hay phiền não, nhiễm ô, lúc bấy giờ, thực tại của tâm sẽ lưu chuyển như một nguồn ánh sáng bao la không giới hạn, và không chướng ngại. Đấy chính là một loại “thần lực” đặc thù của tâm thức không bám víu. Do vậy, ánh sáng siêu việt của Bát nhã được kết thành từ một tâm thức không có định kiến và cố chấp, hay nói khác hơn là một tâm thức xả ly, thanh tịnh.

Trên thực tế, thực tại của tâm luôn cưu mang hai dòng năng lượng: sáng (thiện) và tối (bất thiện). Dòng năng lượng của ánh sáng là tâm từ bi, tâm yêu thương, tâm khoang dung, tâm hỷ xả…và ngược lại, là dòng năng lượng tối tăm, tức là: tham lam, sân hận, thù oán, cố chấp, phiền não, và nhiễm ô. Vì lý do này, Bát nhã được gọi là hành tinh của ánh sáng, một hành tinh không có bất kỳ một bóng mờ nào của phân biệt, cố chấp; một hành tinh của đời sống xả ly thực thụ. Và đấy cũng là lý do tại sao, bạn được mời gọi ngay từ đầu hãy một lần bước vào hành tinh của ánh sáng để có thể lĩnh hội bức thông điệp hùng vĩ của Bát nhã ba la mật (prajñāpāramitā).

Nói tóm lại, bạn không cần thiết phải vướng bận quá nhiều vào ngôn từ để đi vào thể nghiệm đời sống Bát nhã; một điều duy nhất bạn cần thực hành đó là hãy sống tự tại giữa lòng hiện hữu, sống buông bỏ mọi bám víu, cố chấp, nhất là sự bám víu vào một khát vọng vĩnh cửu. Vì khát vọng vĩnh cửu trên thực tế không gì khác hơn là hiện thân của lòng chấp ngã. Nên nhớ rằng bạn sẽ không mất cái gì hết khi thực hành tâm xả ly, mà trái lại, chính sự xả ly hay không bám víu của tâm sẽ đem lại cho bạn một đời sống nhẹ nhàng hơn và an lạc hơn rất nhiều. Xả ly chừng nào thì hạnh phúc chừng đó. Bạn sẽ là người rất hạnh phúc khi mọi gánh nặng (sự bám víu) trong tâm của chính bạn được đặt xuống (xả ly).





2. Từ Đôi Mắt Tinh Nguyên



Bạn thân mến,

Giữa cuộc sống với nhiều điều không như ý, với nhiều bức bách, bất an, và thậm chí với nhiều khổ đau, làm sao bạn có thể thực hành đời sống xả ly để nắm bắt hạnh phúc? Đấy là câu hỏi của nỗi niềm thống thiết và là thách thức lớn nhất trên con đường tìm kiếm hạnh phúc của bạn. Xin hãy đừng lo âu! Thông điệp của Kinh Trái Tim sẽ giới thiệu cho bạn một bước đi (nguyên lí) căn bản để bạn có thể thực tập đời sống xả ly và thụ hưởng nguồn hạnh phúc, an lạc ngay trong hiện tại của đời sống, cho dù đời sống đó là bất an. Bước đi căn bản này được bắt nguồn từ “đôi mắt tinh nguyên” mà Người Tỉnh Thức Bình Yên (Avalokitésvara) đã thực hành thành tựu và đã vượt qua mọi khổ đau.

Để thực tâp bước đi căn bản này, trước hết bạn hãy nỗ lực làm cho đôi mắt của chính bạn trở nên long lanh, sáng ngời để nó có thể đạt đến một trạng thái tinh nguyên; nghiã là, hãy làm cho con mắt của bạn không còn bị giới hạn bởi “cái bạn đang là”!

“Cái bạn đang là” là gì? Đó chính là con người hiện tại của bạn, một con người được nhận diện qua năm yếu tố: cơ thể (body), cảm thọ (feeling), ảnh tượng của tri giác (perception), khuynh hướng tư duy (volitional action), và ý thức của các giác quan (consciousnesses).

Ở đây, cái nguyên nhân trực tiếp làm cho bạn bị phiền não, bất an, hay ngăn cản bạn thụ hưởng nguồn hạnh phúc sống động luôn trôi chảy, trước hết chính là sự “vẩn đục” của đôi mắt, hay nói khác đi là sự bám víu của đôi mắt (ngã kiến). Nói một cách cụ thể, bạn đang sống với/trong những sự thật như vầy: tôi đang bận tâm với cơ thể của tôi vì nó đang thay đổi; những cảm giác này là cái hoặc là tôi khao khát hoặc là cái tôi chán ghét; tôi đang sa đà hay bị cuốn hút một cách thụ động bởi những ảnh tượng (vui, buồn, thương, ghét .v.v.) trong tâm tôi; tôi bị buộc phải suy nghĩ miên man không tự chủ về một qúa khứ xa xôi hay về một tương lai mờ ảo; tôi có ý thức, nhưng ý thức của tôi bị tán loạn không ngừng .v.v. Những sự thật này chính là những biểu hiện của sự bám víu (chấp thủ), nó luôn làm vẩn đục đôi mắt của bạn và dĩ nhiên nó là sức mạnh vô hình dồn bạn vào bến bờ của cả hy vọng và sợ hãi. Trên thực tế, hy vọng và sợ hãi là hai yếu tố thường trực trong tâm của bạn, nó hiện diện ngay cả trong chiêm bao và mộng mị. Cho đến khi nào bạn những bám víu này được buông xuống, thì đôi mắt của bạn sẽ trở về tinh nguyên; nghiã là nó sẽ nhìn hiện hữu như là chính nó.

Làm sao cho đôi mắt trở về tinh nguyên?

Như đã đề cập ngay từ đầu, bạn cần phải ít nhất một lần bước vào hành tinh của ánh sáng, vì ở đó không có sự hiện diện của những năng lượng tối tăm, tức là những tâm thức tham, sân, kiêu mạn… Để bước vào hành tinh ánh sáng, trên nguyên tắc không phải là một công việc khó khăn hay nghiêm trọng; vì lẽ, bạn không cần phải làm thêm cái gì hết mà chỉ có bỏ bớt [những bám víu] đi thôi! Trong một giây phút, nếu bạn có thể bỏ đi những bám víu và để cho dòng tâm thức của bạn trôi chảy trong sự tịnh lạc, lập tức bạn có thể trở về với đôi mắt tinh nguyên. Để làm được điều đó, bạn nên tư duy về ba tư tưởng trọng yếu của cuộc sống như sau:

1. Bản chất của cuộc đời là vô thường, bạn không thể biến nó trở thành thường hằng; do đó hãy chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu trong dòng biến dịch-vô ngã một cách không phản khán. Hãy thả mình để lắng nghe từng nhịp thở của cuộc sống!

2. Mục đích của cuộc sống con người là tìm kiếm hạnh phúc, và cao hơn là chân lý; vậy thì, nếu sự buông bỏ bám víu vào “cái tôi”, một cách nào đó, có thể sinh khởi nguồn hạnh phúc cho ta, tại sao không thực tập sự buông bỏ để sống hạnh phúc.

3. Cuộc sống vốn là một hợp thể không có thật tính, và do đó nó luôn bao hàm cả cái tốt lẫn cái xấu. Nếu chỉ chấp nhận cái mình ưa thích và chạy trốn cái mình không ưa thích, thế là mình trở thành kẻ bị động. Ngược lại, khi bạn sẵn sàng chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu như thế là tự biến mình thành kẻ chủ động từ một gã cuồng si bị động. Sự thật là, khi nào bạn làm chủ được mình, lúc đó bạn sẽ làm chủ được thế giới chung quanh mình.

Ba tư tưởng này, trong vô vàn tư tưởng khác, sẽ giúp bạn trước hết là rửa sạch đôi mắt của mình và sau đó tạo dựng cho tâm thức của chính mình một sự bình yên nội tại. Người Tỉnh Thức Bình Yên, với đôi mắt tinh nguyên không vẩn đục, đã nhìn thấy như thật rằng bản chất của cơ thể này, của cảm thọ này, của mộng tưởng này, của tư duy này, và của ý thức này là một hợp thể nhân duyên, có đó rồi mất đó. “Cái tôi” thực chất chỉ là một ý niệm hão huyền. Do thấy như vậy mà mọi phiền não được rủ sạch, và người đã vượt thoát mọi khổ đau.







3. Biển và Sóng



Bạn thân mến,

Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã. Dĩ nhiên khái niệm “vô phân biệt” được dùng ở đây không có nghĩa là “không biết tốt, xấu”, mà trên căn bản nó là một “thách thức” của cái tự ngã độc tôn và vị kỷ. Vì thế, vấn nạn được đặt ra ở đây là: dẫu biết rằng chân lý của cuộc sống là vô thường và bạn cũng có thể chấp nhận điều đó một cách dễ dàng, nhưng từ trong đáy thẳm của tâm thức, làm sao bạn có thể chấp nhận rằng hạnh phúc không khác với khổ đau, hay hạnh phúc và khổ đau là một (sinh tử tức Niết bàn), hay như Kinh Trái Tim nói: “sắc tức là không, không tức là sắc”? Hay nói khác hơn, là một con người chúng ta khó có thể dung hóa hai ý niệm này làm một. Vì lẽ, theo tập quán của suy tư, ta luôn cho rằng hạnh phúc và khổ đau là hai yếu tố hoàn toàn trái ngược nhau, giống như thiên đường và địa ngục. Vậy thì làm sao để lĩnh hội được ý nghiã “bất dị” và “tức thị” (không hai, không không khác) này?

Chúng ta hãy lấy một thí dụ về sóng và nước từ đại dương. Trên thực tế, sóng là biểu hiện của nước và nước là bản chất của sóng; sóng khác nước một điểm duy nhất đó là sự biểu hiện nó—trồi lên lặn xuống liên hồi theo chuyển động của gió—mà thôi. Do đó, về mặt hiện tượng, sóng và nước có vẻ như hai, tức là sóng khác với nước, nhưng về mặt bản thể, sóng và nước là một, vì cả hai có cùng một thể: nước. Đấy là ý nghiã không hai, không khác của Bát nhã. Từ thí dụ này, bạn có thể thấy rằng khổ đau và hạnh phúc tuy khác nhau về mặt biểu hiện, như sự khác nhau giữa vui và buồn, nhưng về mặt bản thể, cả hai là một vì chúng đều phát sinh từ một dòng tâm thức. Sự thật là, vui cũng ở tại tâm mà buồn cũng ở tại tâm. Khổ đau và hạnh phúc, cho đến các phạm trù thuộc cảm thọ, mộng tưởng .v.v. cũng đều như vậy.

Tại sao bạn cần thiết phải suy gẫm về hình ảnh của sóng và nước? Vì rằng càng quan sát về nó bạn càng thấy rõ hơn về tác dụng của sự phân biệt, nhất là khi sự phân biệt đó nằm trong cơn khao khát của sự bám víu cuồng si vào “cái tôi” và “cái của tôi”, cũng như vào thế giới của dục vọng. Sự phân biệt dựa trên căn bản của tự ngã là con đường dẫn đến mọi sự bám víu, cố chấp.

Trên thực tế, nếu cuộc sống của bạn càng dựa trên đối đãi phân biệt chừng nào thì bạn càng cảm thấy bất an và căng thẳng chừng đó. Bạn có thể, chẳng hạn như, sẽ thấy rằng những người chung quanh không tốt như bạn, không bằng bạn, hay ở đẳng cấp khác với bạn, và do đó bạn không cảm thấy dễ chịu để trải lòng ra với họ. Những cái nhìn như thế chính là hiện thân của sự vị kỷ bắt nguồn từ ý niệm phân biệt. Khi càng chìm sâu vào ý niệm phân biệt, đời sống của bạn sẽ rơi vào trạng thái cố thủ; cũng từ đó, sự nghi ngờ, suy đoán, và tưởng tượng không ngừng tuôn trào trong tâm trí của bạn và nó sẽ phủ lấp mọi nguồn ánh sáng trong thực tại của tâm. Bạn sẽ trở thành một con người bận rộn với những miên man tư lự, sa đà với những niệm tưởng hão huyền chẳng khác nào một người điên lâm râm nói nhảm suốt ngày mà không biết mình đang nói cái gì. Và như thế, chính bạn đã đánh mất cuộc sống thực thụ của mình, đồng thời đánh mất luôn cả cái khả năng “sống tự tại” giữa lòng hiện hữu của mình. Ngược lại, bạn sẽ có khả năng sống tự tại trong mọi thăng trầm của cuộc đời—phong cách của bậc hành giả—khi nào mọi ý niệm phân biệt nhân-ngã đều được rủ bỏ.

Hơn thế nữa, như đã đề cập, mục tiêu của Bát nhã khi nói đến nguyên lí “vô phân biệt” là nhằm để đánh thức cái cơ đồ của bản ngã cá thể; nó luôn luôn là một chướng ngại lớn nhất gây ra mọi nỗi bất an trong đời sống tâm thức của bạn. Nó chia rẻ con người của bạn theo nhiều cách khác nhau: được, mất, hơn, thua, vui, buồn, danh vọng và không danh vọng. Nó cũng chính là nỗi ám ảnh mà bạn cưu mang canh cánh trong lòng từ khi biết cười, biết khóc. Bao bọc chung quanh cái bản ngã cá thể không gì khác hơn là những khoen xích nhân duyên sinh diệt liên hồi mà bạn cứ ngỡ rằng chúng là tất cả những gì bản thể của bạn. Chính vì thế, ánh sáng “vô phân biệt” của Bát nhã là một thanh kiếm báu khả dĩ chặt đứt mọi tơ duyên lằn nhằn của cái tự ngã độc tôn để đưa nó về với nguyên thể ban đầu—dòng thực tại vô ngã luân lưu bất tuyệt. Dòng thực tại vô ngã này chính là bản thể của tâm thức uyên nguyên, hay nói khác hơn, đấy là Phật tính. Vì lí do này, chúng ta thường nghe cách ngôn của Bát nhã rằng “quay đầu là bến” (hồi đầu thị ngạn).

Thật là một điều thú vị khi khám phá ra rằng, cuộc sống thực thụ của chúng ta không cần đến một bản ngã cá thể để hiện hữu, cũng như “hoa hồng, dẫu bạn gọi tên nó là gì đi nữa thì hương thơm của nó vẫn là như thế”. Cuộc sống thực thụ không cần một danh tính. Hạnh phúc thực thụ cũng không cần một danh tính. Bạn hãy một lần vô danh tính để thể nghiệm cuộc sống đang là.





4. Cõi Mơ



Bạn thân mến,

Từ đâu ta đến

Chưa khóc chào đời;

Về đâu ta sẽ

Khi nhắm mắt rồi?



Vâng, một câu hỏi như thế nghe có vẻ ngây ngô và không liên quan gì đến thực tế của cuộc sống, bây giờ và ở đây. Nhưng chính câu hỏi này sẽ là bàn tay vàng khả dĩ đánh thức bạn và giúp bạn vượt qua những lao đao của mộng tưởng để trở về với thế giới bình yên nội tại vốn chưa từng sinh và chưa từng diệt. Lời mà Kinh Trái Tim muốn nói với bạn đó là: “cái bạn đang là” là một cõi mơ”, vì tất cả không hề có một thực tính nào hết (tất cả hiện hữu được biểu thị là không); hay nói khác đi bạn và thế giới của bạn điều là hiện hữu của tương duyên mà thôi.

Ở đây, những gì trong mơ hẵn nhiên đều là phù du, giả tạm. Chúng không hề có thực. Như khi mắt bị nhậm, bạn thấy bông hoa xuất hiện giữa hư không; đến khi mắt hết nhậm, bạn không còn thấy nó nữa. Cũng vậy, cảnh trong mộng tuy là có thực, nhưng chỉ là thực của mộng; khi tỉnh giấc, mọi thứ trong mộng đều tan biến! Bản chất cuộc sống của chúng ta đều là như thế!

Hãy lấy một thí dụ. Khi chưa được sinh ra, bạn có tên hay không? Khi được sinh ra rồi, cái tên của bạn có phải là tất cả những gì thuộc về bạn, hay đơn thuần chỉ là một danh tính tạm thời đại diện cho bạn? Đi sâu hơn nữa, con người hiện tại bằng xương bằng thịt của bạn có phải là một bản thể bất biến, hay là nó luôn luôn biến đổi trong từng nhịp thở và nó sẽ bị hủy hoại sau một thời gian nhất định? Con người thực thụ của bạn đã là như thế huống gì là những tạo tác từ thân, miệng, và ý của bạn. Thế thì, “cái bạn đang là”, hay cái mà bạn cho là “cái tôi”, và “cái của tôi” đó há không phải là một cõi mơ ư! Vậy tại sao bạn phải ôm ấp một giấc mơ huyễn hoặc để rồi chơi vơi với những lụy phiền?

Suy nghiệm như thế nhằm để thấy rõ rằng: “ Tất cả hiện hữu đều là cõi mơ.” Cho đến những ý niệm về sống, chết, nhiễm ô, trong sạch, thêm, bớt, vân vân đều là những giả định từ mộng tưởng; chúng là hiện thân của sự phân biệt và bám víu từ một tâm thức cuồng si mà thôi. Chỉ khi nào bạn vượt qua thế giới của phân biệt (nhị nguyên) này, thì khi đó bạn sẽ thực thụ bước vào một chân trời mới: hạnh phúc-thực tại, một thế giới mà ngôn ngữ của chúng ta trở nên không còn hiệu lực.

Vậy thì làm sao để thức tỉnh từ cõi mơ? Vâng, đó là câu hỏi tha thiết vô cùng mà chúng ta sẽ tự vấn khi một mình đối diện với chính mình. Để tỉnh thức, bạn không cần làm thêm một điều gì hết, việc duy nhất mà bạn cần thực tập đó là hãy nhìn thật lâu và thật sâu vào những gì đang sinh diệt chung quanh ta và trong chính con người của ta, và hãy thấy như thật rằng chúng chỉ là một cõi mơ, vậy thôi. Thực tập lâu ngày như thế bạn sẽ tự tạo cho mình một tâm hồn khoan dung vô hạn; nghĩa là bạn sẽ có khả năng rủ bỏ những gì không cần thiết cho cuộc sống của bạn, đó là những tâm lý buồn, giận, ganh, ghét, hơn, thua…Cho đến khi nào những tâm ái thủ đó được từ bỏ, trái tim từ bi của bạn sẽ bỗng dưng nở nụ trưng bày giữa biển khổ mênh mông. Và lúc đó, như thiên nga đã lìa ao hồ, bạn sẽ rong chơi tự tại ngay trên cuộc đời trần cấu này mà không cần phải chờ đợi đến một ngày nào đó sau khi đã hoàn tất những khát vọng.

Thử một lần tự hỏi: cho đến giờ phút này, bạn đã cầm chắc trong tay được cái gì giữa cuộc sống ngắn ngủi và không ngừng trôi chảy này? Thay vì một ngày nào đó bạn sẽ phải ra đi với những muộn phiền: được, mất, hơn, thua…, tại sao không bây giờ và ở đây sống thảnh thơi với hạnh phúc-thực tại, một hạnh phúc không bản ngã và nó chỉ hiện hữu bao lâu bạn còn sống, hiểu theo đúng nghĩa của từ này. Khi bị đắm chìm trong mộng mị, có nghĩa là bạn đã đánh mất sự sống của chính mình.





5. Bên Bờ Mộng Tưởng



Bạn thân mến,

Dựa vào nền tảng nào để bạn có thể nhìn thấy rằng hiện hữu chỉ là một cõi mơ? Vâng, đấy là một câu hỏi then chốt, như chiếc chìa khóa vàng, để bạn mở cánh cửa ảo vọng-nghìn năm và bước vào thế giới thực tại, một thế giới ở bên kia bến bờ của mộng tưởng.

Kinh Trái Tim, như bạn thấy đó, đã dùng một chuỗi phủ định liên hồi, cũng còn gọi là phủ định của phủ định, để đánh tan mọi phân biệt về có, không, sinh, diệt, về thường, đoạn, khứ, lai, hay nói đơn giản là bất kỳ những bám víu và phân biệt nào, cho dù sự phân biệt và bám víu đó là sinh tử hay Niết bàn. Một cách thức phủ định như thế không ngoài mục đích xua tan mọi phân biệt cho đến những ý niệm về phân biệt để đưa bạn về với thế giới xả ly, vô niệm. Đấy là một thế giới “viễn ly điên đão mộng tưởng”, là suối nguồn thực tại, là bản thể uyên nguyên vốn không hề sinh diệt. Điều quan trọng mà bạn cần phải lưu ý đó là thế giới đó không phải là những gì chỉ có thể đạt được sau khi chết, mà trái lại, nó luôn luôn hiện hữu ở đây, ngay tại con người này và mảnh đất trần thế này.

Hãy lấy một thí dụ, khả tính nghe của bạn ba mươi năm trước đây— khi còn là một hài đồng—và bây giờ, tức là ba mươi năm sau, có khác nhau không? Không. Nó vẫn là như thế! Bạn có thể sử dụng cái khả tính nghe cũng như bị chi phối bởi nó theo nhiều cách khác nhau, nhưng cái khả tính đó từ bản chất nó không hề thay đổi. Hễ có tiếng động là khả tính nghe xuất hiện một cách tự nhiên không phân biệt. Cũng vậy, thân thể của bạn tuy già cỗi theo năm tháng và chuyển hóa theo luật vô thường, nhưng giác tính của bạn vẫn là như thế. Nên nhớ rằng, bạn có tuổi nhưng tâm hồn của bạn không có tuổi. Và do đó, bao lâu bạn còn giữ được sự hồn nhiên, hay nói khác hơn, lấy sự hồn nhiên làm nền tảng cho cuộc sống thì bấy lâu bạn vẫn trẻ thơ và vẫn là trẻ thơ. Bạn đừng bận tâm quá nhiều vào tuổi tác, vì bản chất của tuổi tác không gì khác hơn là sự chồng chất của vui, buồn trong kiếp người mà thôi, dẫu rằng người ta thường xem tuổi tác như một thứ kinh nghiệm quan trọng. Trong dòng thực tại của tâm, tuổi tác không hề có một ý nghĩa nào. Nhưng trong thế giới của mộng tưởng, tuổi tác quả thực là ấn tượng vì nó là sự nối kết những biến cố thăng trầm của đời người.

Nhưng làm sao để quay lại với tuổi thơ khi mà tóc của bạn đã đổi màu và da của bạn đã dần khô cứng và sếp lại từng nếp nhăn? Vâng, chúng ta cảm ơn Kinh Trái Tim vì đã cho ta một phép lạ nhiệm mầu, đó là con đường sống xả ly, không cố chấp và không bám víu, cho dù sự bám víu đó được đặt ra trên căn bản của khát vọng về một miền Niết bàn vĩnh cửu. Bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi cho rằng khát vọng về Niết bàn là điều mà con người hằng mong ước, vì Niết bàn trên nguyên tắc khác hẳn với thế giới sinh tử, vô thường kia mà? Một suy nghĩ như thế, vâng, nghe có vẻ hợp lý trong suy luận của bạn, nhưng dòng suy nghĩ đó rõ ràng vẫn cưu mang đâu đó những chiều kích của tâm phân biệt, nhị nguyên. Trong khi đó dòng thực tại đang mãi miết chảy không hề có bất kỳ khái niệm nào về sinh tử hay Niết bàn. Cũng như bản chất của rượu, nó không hề có đặc tính “say” mà do con người “say” đó thôi. Đó là lý do tại sao, Kinh Trái Tim dùng chuỗi phủ định liên hồi để kết thúc bằng một phán quyết rằng “không có gì để đạt được hết” (vô trí diệc vô đắc). Vì lẽ, mọi sự diễn ra trên con đường giác ngộ chẳng khác nào một ông già biến thành trẻ con khi ông ta quẳng hết gánh ưu phiền để nô đùa với chúng.

Cũng vậy, cho đến khi nào bạn thực sự chân thành sống xả ly, nghĩa là sống vượt lên trên mọi phân biệt héo hắt, thì lúc bấy giờ khả tính của giác ngộ sẽ thực thụ hiển bày. Và bấy giờ bạn là Phật và Phật chính là bạn. Hay nói theo ngôn ngữ của Bát nhã, huyễn mộng và Niết bàn không hai không khác (samsāram eva nirvānam).[viii] Vâng, điểm đến của Bát nhã là như thế. Ố kià! tâm bất sinh, nó ở bên kia bờ của mộng tưởng! Ngay bây giờ, bạn có thể đến đó bằng con đường xả ly, vô niệm.



Sóng về xóa dấu chân không

Bỗng dưng thuyền đã bên dòng chân như.





6. Con Đường Cho Những Ai…



Bạn thân mến,

Đến đây, lại một lần nữa, bạn hãy tự hỏi: mục đích cuộc sống của bạn là gì? Phải chăng đó là hạnh phúc và chân lý. Và ở một bình diện nào đó, cả hai chỉ là một. Vì khi bạn thực sự trực nhận được chân lý, khi đó bạn có hạnh phúc. Hạnh phúc và chân lý sẽ khác nhau khi chúng được đặt trong những quy ước của tập quán suy tư, nhưng trên chiều tuyệt đối, chúng không hề có khác biệt nào.

Cũng vậy, khi Người Tỉnh Thức Bình Yên trực nhận rằng bản chất của hiện hữu chỉ là một cõi mơ, người đồng thời vượt qua mọi khổ đau trong ý nghĩa “sống tự tại”. Và nền tảng của lối sống tự tại, giải thoát mọi ràng buộc đó đã được đúc kết thành những kinh nghiệm tâm linh quan trọng mà Kinh Trái Tim bảo rằng: “Người Tỉnh Thức Bình Yên, do không sở đắc nên sống an lành trong Tuệ giác Vô thượng và thoát ly tất cả chướng ngại. Và rằng, vì không có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xa rời những cuồng si mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.” Vâng, đây chính là con đường dành cho những ai đang băn khoăn giữa ngả tư đường, nơi mà bên này là trần tục và bên kia là thánh thiện.

Nói khác hơn, bạn đang sống trong một bối cảnh đa đoan phân biệt và với một tâm thức cũng đa đoan phân biệt, chính cái đa đoan phân biệt đó luôn thúc đẩy bạn đi đến những lựa chọn mà tự nó bao giờ cũng chia rẻ bất kỳ cái gì bạn thủ đắc trong tay, cho dù đó là Niết bàn. Và sự thật là, trên con đường tìm kiếm hạnh phúc và chân lý, càng lựa chọn thì càng rối ren. Cuối cùng thì đó vẫn không phải là lối thoát thực thụ cho cuộc sống bình yên nội tại của bạn. Ở đây, “vượt qua khổ đau trong ý nghĩa sống tự tại” là một con đường thực tiễn, khả dĩ đưa đến hạnh phúc ngay trong hiện tại.

Tuy nhiên, trên thực tế, bạn có thể nghĩ rằng, nếu bỏ hết mọi đa đoan phân biệt thì cuộc đời của bạn sẽ ra sao đây? Thế giới sẽ trống vắng ư? Hay thế giới sẽ hoang dã ư? Không phải vậy! Khi mọi đa đoan phân biệt được đặt xuống, lúc đó bạn sẽ thực thụ tắm mình trong dòng hạnh phúc-thực tại, và bấy giờ cũng là lúc trái tim đại bi của bạn bắt đầu thức tỉnh. Chính trái tim đại bi là nguồn mạch của sự sống, nó nuôi lớn thánh tâm nơi bạn và cũng là chiếc thuyền từ cứu độ tha nhân. Tâm đại bi và tuệ giác bao giờ cũng là sự nghiệp của một vị Phật hay một vị Bồ tát. Với tâm đại bi đi vào đời, bạn sẽ không mệt mỏi vì trán ướt đẫm mồ hôi để làm lợi ích cho chúng sinh. Và có khi dòng nước mắt đại bi cũng chảy dài trên đôi má chan hòa cùng cái đau thương của những kẻ đang lang thang, thất thểu bên hè cùng với đói nghèo và bệnh tật. Tâm đại bi là đóa hoa bất tử. Bạn không thể sống hạnh phúc nếu thiếu vắng tâm đại bi.

Nói tóm lại, khi đã buông bỏ mọi bám víu, đa đoan, tâm của bạn sẽ như hư không chan hòa cùng ánh sáng, ở đó sẽ không còn bất kỳ một tỳ vết nào của tự ngã, và do đó bạn vượt qua mọi chướng ngại. Kinh nhấn mạnh rằng, “vì không có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xa rời mọi cuồng si mộng tưởng.” Và, đó chính là lúc Niết bàn hiển lộ, hay nói khác đi, đó là lúc bạn thực thụ sống Niết bàn. Bấy giờ, gia tài bất diệt mà bạn sẽ mang theo khi đi vào đời là tuệ giác vô thượng và trái tim đại bi.



Thay lời kết

Bạn thân mến,

Kinh Trái Tim qủa là thanh kiếm báu để chặt đứt phiền lụy thế gian. Tuy nhiên, chỉ khi nào ứng dụng những lời dạy của kinh vào cuộc sống thực tiễn, bạn mới “thưởng thức” được hương vị nhiệm mầu của nó. Những thắc mắc mà bạn đang cưu mang (nếu có) sẽ được trả lời bằng đời sống xả ly của chính bạn, vì ngôn ngữ héo hắt của chúng ta không làm sao diễn đạt được cái mà tự thân nó là phi ngôn ngữ. Cũng như tình yêu, không ai có thể diễn đạt nó được, chỉ có sự cảm nhận và thể nghiệm trong im lặng mà thôi. Tất cả những gì mà chúng ta, trong một giới hạn nhất định, học được từ Kinh Trái Tim không ngoài mục đích làm cho đời sống của chúng ta trở nên có ý nghĩa thực sự, vượt lên trên mọi đa đoan của lòng người để sống tự tại giữa thế gian và làm lợi ích cho thế gian. Trước khi giã từ bức thông điệp này, mong bạn hãy nhớ: “với tinh thần không sợ hãi, bạn hãy là người tỉnh thức bình yên đi vào thế gian để xây dựng Niết bàn, vì quê hương của Niết bàn là trần thế!” Gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā. Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.



Phần Bốn

NGHI THỨC THỌ TRÌ TÂM KINH

1. Lời tán Phật và cúng dường Tam Bảo:

Con nay thắp nén hương lòng
Dâng Ba Ngôi Báu vô cùng thiết tha
Chắp tay kính lạy Phật đà
Từ lời trần thế tâm hoa cúng dường.

Nam mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

2. Đảnh lễ cúng dường:


Nam mô thế giới mười phương, thường trụ vĩnh cửu, vô thượng chư Phật.

Nam mô thế giới mười phương, thường trụ vĩnh cửu, vô lượng nghĩa Pháp.

Nam mô thế giới mười phương, thường trụ vĩnh cửu, vô lượng thánh hiền.



3- Lời khai kinh:

Kính lạy Thế Tôn, Đấng Tuệ giác bình đẳng vĩ đại!
Như mặt trời rực sáng ở phương Đông,
Chánh Pháp của Ngài nhiệm mầu vô thượng.
Con nay xin nương tựa để đi vào hiện quán
Sống trong sinh thức của tuệ giác ngàn xưa

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

4- Kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng (tụng)

1- Khi tiến sâu vào nguồn mạch của Tuệ giác Vô thượng, Người Tỉnh Thức Bình Yên soi sáng như thật rằng tự tính của năm hợp thể đều là Không, liền thoát ly mọi khổ ách.

2- Này người con dòng Sari, hình thể chẳng khác chân không, chân không chẳng khác hình thể; hình thể là chân không, chân không là hình thể. Cảm xúc, niệm lự, tư duy và ý thức đều là như vậy.

3- Này người con dòng Sari, tất cả hiện hữu được biểu thị là không, nó không sanh, Không diệt, không nhơ, không sạch, không tăng, không giảm.

4- Vì thế, này người con dòng Sari, trong Không không có hình thể, không có cảm xúc, không có niệm lự, không có tư duy, không có ý thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý ; không có hình thể, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm và hiện hữu. Không có đối tượng của mắt, cho đến không có đối tượng của ý thức ; không có minh, không có vô minh, không có sự chấm dứt của minh, cũng không có sự chấm dứt của vô minh ; cho đến, không có tuổi già và sự chết, cũng không có sự chấm dứt của tuổi già và sự chết ; không có khổ đau, không có nguyên nhân của khổ đau, không có sự chấm dứt khổ đau, và không có con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau; không có trí giác cũng không có sự thành tựu trí giác.

5- Người Tỉnh Thức Bình Yên, do không sở đắc nên sống an lành trong Tuệ giác Vô thượng và thoát ly tất cả chướng ngại. Và rằng, vì không có những chướng ngại trong tâm nên không có sợ hãi và xa rời những cuồng si mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.

6- Tất cả chư Phật trong ba đời đều nương vào Tuệ giác Vô thượng mà thành tựu chánh giác.

7- Vì thế, nên biết rằng Tuệ giác Vô thượng là sức thần kỳ vĩ, là sức thần của trí tuệ vĩ đại, là sức thần cao tuyệt, là sức thần tối hậu, vô song, có thể trừ diệt tất cả khổ đau. Sức thần thoắt sinh từ Tuệ giác Vô thượng này là sự thật, là chân lý. Sức thần có năng lực tối thượng đó được tuyên nói trong kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng rằng:

"Đi qua, đi qua,
Đi qua bờ bên kia,
Đã đi qua đến bờ bên kia, svāhā!"

5- Lời nguyện:

Bàng hoàng về cõi vô biên
Lắng nghe tiếng gọi nơi miền quê xưa
Thì thầm cho cuộc đong đưa
Lời Tâm kinh, vỡ mộng xưa, Niết bàn.

Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ tát.

Nguyện rằng :
Hôm nay chúng con
giữa lòng pháp giới
thọ trì Tâm Kinh
Cầu cho : ....... (đọc lời nguyện tùy ý cầu an, cầu siêu...)
Cuối xin Đấng Đại Từ Bi
Dũ ánh quang minh chiếu giám.

6- Hồi Hướng:

Các trời A tu la
Và Dược xoa vân vân
Ai đến nghe Phật pháp
Tất cả hãy hết lòng
Hộ trì Phật pháp ấy
Làm cho thường còn mãi
Bằng cách thường tinh tấn
Thực hành lời Phật dạy
Những người có đức tin
Đến đây nghe Phật pháp
Hoặc ở trên mặt đất
Hoặc ở trong không gian
Với thế giới loài người
Hãy thường hành từ tâm
Bản thân thì ngày đêm
Sống đúng với Phật pháp
Nguyện cầu mọi thế giới
Luôn luôn thường an ổn
Bằng cách phước và trí
Đều đem làm lợi người
Để bao nhiêu vọng nghiệp
Đều được tiêu tan cả
Siêu thoát mọi khổ đau
Đi về Đại Niết bàn
Hãy xoa khắp cơ thể
Bằng hương thơm giữ giới
Lại mặc cho cơ thể
Bằng y phục thiền định
Rồi trang điểm tất cả
Bằng hương thơm tuệ giác
Thì bất cứ ở đâu
Cũng thường được an lạc.

Nam mô các vị Hộ pháp, các vị Bồ Tát ma ha tát (3 lần)

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo. (lạy 3 lạy)



Phụ Lục: I

Message from the Heart Sutra

(American version-2007)



Introduction



Dear Friends in Dharma,



Ten years ago, when I first wrote the Message from the Heart Sutra, I did so with all sincerity. While writing, I told myself that, despite the risk in the writing, it is too interesting to discard. However, I have never felt truly satisfied with that message—I really don’t know why! Now, ten years later, having read that old message again, I felt the need to return to the same task once more. The result of these efforts is the present message from the Heart Sutra that you hold in your hands at this moment.

While writing this message, I did not have the consciousness that I was defining or explaining the meanings of the Prajñāpāramitā philosophy, but I did so from a deep inspiration of spirituality—one that was so deep it sometimes caused me to burst into tears. In particular, when I deeply penetrated into the words of the Buddha; I perceived them to be so “beautiful” that they did, in fact, rescue me, giving me an inner peace to which I cannot compare anything in this world.

I hope that, through this message, serving as a spiritual motivation, we may be able to help one another overcome all vicissitudes of our mundane complexity and attachments and return to the life of true happiness without self. Please read this message, in pleasure as well as in sadness, in order to warm up your heart in this profane world. Hopefully, your smile will drive away the sufferings of sentient beings in the three thousand worlds.

Namo Avalokitésvara Bodhisattva



Los Angeles, August, 2007

Khai Thien





1. The Planet of Light

Dear Friends,

The message you are holding in hand is “part of the quintessence” extracted from the Prajñāpāramitā Hrdaya Sutra (the Heart of the Perfect Wisdom). With this phrase—“part of the quintessence”—I would like to stress that we are observing the transcendent and flawless beauty of the Prajñāpāramitā not with the highest wisdom, but with a limited dimension of the mind that continues to be stirred by gain, loss, win, failure, etc. With such a mind, how can we appreciate the perfect beauty of the Prajñāpāramitā? However, just as with the moonlight, those who have eyes are able to see it. The beauty of the moonlight depends on the eyes viewing it—or, more exactly, the mind of each individual. We are here together sharing the sublime message from the Prajñāpāramitā not in a theoretical framework, but from the reality of spiritual life. Certainly, those who are able to perceive the meanings of the message from the Prajñāpāramitā—even just a part of it—will have a truly peaceful and happy life—a life, as the Heart Sutra says, “going far beyond all perverted views, all confusions and imaginations,” a life of being free from the succession of sufferings.

In order to penetrate deeply into the mystical life of the Prajñāpāramitā, we first need to step into the planet of light at least once in our lives, even right at this moment for the living life of the Prajñāpāramitā is the very light of wisdom. This is the special light that goes beyond all limits of any mundane spirit; it is the wisdom’s light (prajñā) that shines on the other shore (pāramitā) of any ordinary perception. It is because of this wisdom’s light that a suffered “soul” can be rescued, a real life of happiness can be established; most of all, an enlightenment may be able to blaze up in the current of our mind—not at the end of life or in the other side of human existence, but right in this body and this world.

We have different kinds of light: sunlight, moonlight, biological light, light from nature, light of science, light of knowledge…but here the light of “the wisdom on the other shore” (prajñāpāramitā) is an extraordinary light of spirituality that cannot be perceived through reasoning or intellectualism. The only way through which we can obtain this pāramitā wisdom is the personal practice and experience of our own being. The most essential knowledge of the here and now is the realization that nothing in our worldly happiness—not love, money, fame, position, or power—is secure or certain. Indeed, everything is ever-changing in accordance with the law of impermanence. Every outburst of anger or envy that arises in our mental currents has the power to change everything in just a moment; what we call happiness, love, fame, etc., may transform into suffering. The life of our worldly happiness would be extremely unstable were it not illuminated by the light of wisdom (prajñā).

What then is the characteristic of the prajñā and where does it come from?

Prajñā is itself a special light of wisdom that transcends all individual prejudice and attachment to the concept of “existence,” “non-existence,” “birth,” “death,” “permanence,” “annihilation,” “identity,” “difference,” “coming,” and “going.” Since its nature is beyond all such attachments, the Prajñā is defined as the wisdom on the other shore (prajñāpāramitā) or the wisdom of non-self (anātman). It is through this nature of transcendence of all attachments that the Prajñā is able to carry within itself an unlimited ability of true freedom. Take, as an example, when you hold something firmly in hand; that is to say, the hand itself no longer has the ability to hold any other thing because it is occupied with the thing you are holding. Contrastingly, when you hold nothing in hand—namely, the hand is now absolutely free from all attachments—it holds in itself an unlimited ability; that is, it can take anything it wants. In the same way, when the mind is not governed or controlled by greed, hatred, defilement, or attachment to self, then the reality of the mind can flow like the source of radiant light from the sun, limitless and unobscured. This is the special kind of “supernatural power” of the non-attached mind. Thus, the transcendent light of Prajñā is formed by the mind, which is free from any individual prejudice and attachment; it is the mind of purity and equanimity (upeksā)[ix].

In fact, reality of the mind always carries within itself two fluxes of energy: the light (kusala) and the dark (akusala). The light energy is loving-kindness, compassion, sympathetic joy, and equanimity, while the dark is craving, hatred, grasping, attachment, and/or any defilement. For this reason, Prajñā is called the planet of light, a planet without any shape of discrimination and attachment, or a planet of the renounced life (upeksā). In addition, you are invited, from the beginning, to step onto the planet of light in order to perceive the sublime message from the Prajñāpāramitā because only in this plane may we listen to the voice of the wisdom’s light.

In brief, in practicing and experiencing the life of prajñāpāramitā, you don’t need to pay too much attention to the world of linguistic concepts; the only thing you need to practice is living the life of self-control, free from delusion and attachment—particularly attachments to the immortal desire, because such attachment is nothing more than the embodiment of the self-love or egocentric view. The most important thing to keep in mind is that we lose nothing in practicing such a life. Indeed, it is the non-attachment and equanimity that make our lives much happier and more peaceful; the more we practice non-attachment, the happier we will be. The truth is, whenever all the burdens of attachment—attachment to gain, loss, win, failure, fame, power, etc.—are released in our minds, we are then truly free and able to enjoy true happiness right here and now.





2. From the Crystal Eyes



Dear Friends,

How it is possible, in the world of anxiety, discontentment, dissatisfaction, and even suffering, to live a happy life by practicing equanimity and non-attachment? Such a sincerely touching question has arisen from the practical as well as the greatest challenge on the search for true happiness. Don’t worry! The message from the Heart Sutra provides you with the basic steps (principles) for practicing the renounced life and appreciating the true happiness of the non-self immediately, in the here and now, despite your unsatisfactory and unfavorable conditions. These basic steps originally emerged from “the crystal eyes” with which the Bodhisattva Avalokitésvara practiced successfully and overcame all troubles and sufferings.

However, in order to practice these basic steps, you must first cleanse your eyes and make them pure and shining. Let your eyes return to their original state—that is, no longer limit your eyes by “what you are”!

What is “what you are”? What you are is your present person, identified through five elements: body, feeling, perception, volitional actions, and consciousness. Here, the direct causes that make you unhappy, distressful, and uneasy as well as prevent you from enjoying living happiness are the “dirtiness” in your eyes. In other words, it is the attachment from the wrong view of self. You are living with these truths:

· “I worry about my body because it changes constantly.”

· “These feelings are either what I long for or what I don’t like; I like to feel this way or that way.”

· “I am passively immersed in the world of obsessions, confusions, thoughts, images, or feelings (such as pleasure, sadness, satisfaction or dissatisfaction, etc.)”

· “I was forced to wander with old experiences of the past or illusive desires for the future.”

· “I am conscious of existence, but my consciousness is always out of control; like a fish out of water, it acts in an uncontrolled manner.”

Such states of your mental life are, indeed, a manifestation of your own inner attachments, pushing you into a reality of both fear and hope. Actually, fear and hope are the two permanent factors in our minds; they exist in every moment, even in our dreams. Clearly sufferings are nothing other than living in such a state. Therefore, your eyes will be able to return to their crystal state only when those attachments from self-view are released. Only the pure eyes are able to observe existence as it is without any distortion from personal prejudice.

How can you let your eyes return to their crystal state?

As mentioned from the beginning, you need to enter the planet of light at least once in your life to see the truth because there no dark energy such as craving, hatred, pride, etc., exists. To step onto the planet of light is not, in principle, a difficult or serious task; to get there, you need not to do any extra work, but cut short (or lessen) your attachment. That is all. Even in this very moment, “deleting” all your attachments and letting your light-source of mind flow in tranquility, your eyes will immediately reach the crystal state. In order to practice this task, however, you need to consider the essential ideas:

-The nature of life is impermanent; it is impossible to make it permanent. Therefore, you should, in the stream of life-transformation, welcome together both the good and the bad as they come into existence without any self-resistance. Release yourself and listen to the breath of life!

-The purpose of human life is happiness and, further, truth. Thus, practicing renunciation of the attachment to “self” or “ego” in one way or another may give rise to your true happiness. So why not practice that renunciation to live a happy life?

-Human life is, by nature, an aggregate without any independent entity. Thus, it always consists of both the negative and the positive. Therefore, if you just follow what you like and run away from what you don’t like, you become a passive person. Conversely, if you are able to welcome both the good and the bad together, you become a great person. The truth is, whenever you are able to control yourself, you are able to control the world.

These thoughts, among others, will help you first cleanse your eyes and then establish for yourself an inner peace. The Bodhisattva Avalokitésvara, with his crystal and pure eyes, truly perceived the nature of this body, this feeling, this perception, this thinking, and this consciousness to be conditional aggregates, arising and ceasing from moment to moment. The concept of “self” or “ego” is but an illusion. In seeing such a truth, the Bodhisattva overcame all troubles and sufferings.





3. Ocean and Waves



Dear Friends,

In order to have the ability to welcome freely both the good and bad together, you need to hold in hand a special principle of Prajñāpāramitā: the “non-discrimination” or “non-distinction.” The concept of “non-discrimination” here of course does not mean “not knowing what is good or what is bad,” but in stead it is a “challenge” to the attachment to the independent self of each individual—or simply, the egocentric view.

The question that arises here is whether you know that life is impermanent. You may have no difficulty in accepting this truth. However, from the bottom of your mind, you may ask how it is possible for you to agree to such a concept of the Prajñāpāramitā’s “non-discrimination,” which says that “happiness does not differ from suffering” or that “happiness and suffering are the same.” Or, as the Heart Sutra says, “Form is not different from emptiness, emptiness is not different from form; form is emptiness, and emptiness is form.” As an ordinary person, you definitely find it difficult to combine such two quite separate ideas into one because our habit of thinking allows us to consider the two ideas, happiness and suffering, as something totally different and contrary to each other, like heaven and hell. So how can we perceive the meaning of “non-differential” and “identical” as mentioned in the Heart Sutra?

We here take an example of water and waves from the ocean. In reality, waves are manifestation from water, and water is the very nature of waves; the only point that makes waves different from water is the manifestation of waves, going up and down according to each movement of the wind. Therefore, although water and waves seem to be different phenomena, both share the same nature: water. That is all about the “similarity” and “difference” between water and waves. This example may help us understand the meaning of “non-differential” and “identical” as mentioned in the Heart Sutra. The truth is, if we look at these phenomena, suffering and happiness are quite different from one another, like pleasure and sadness. However, if we look deeply into their nature, we can see that both suffering and happiness arise from the same foundation: the mind. Indeed, pleasure arises from the mind, as does sadness. Suffering, happiness and even other categories, such as feeling and perception, are all manifestations from the mind.

Why should you think about the metaphor of water and waves? The more you observe the water and waves, the more you understand the effectiveness of the dualistic discrimination, particularly when this discrimination arises in the thirst of your crazy attachment to the “I,” “mine,” and “my self” as well as to the world of desires. Discrimination emerging from the self-view—i.e., the “I,” “mine,” and “my self”—is the very way leading to stubborn attachment, which eventually ruins your ability of living peacefully and free of all delusions.

In reality, the more you base your way of life on this dualistic discrimination, the more stressful and uncomfortable you will to be. You may, for example, see that people living around you are not as good as you; they are either less important than you or from a lower class when compared with yours. Correspondingly, you may find it hard to open your heart and your mind to them. Such points of view, clearly, are embodiments of egocentrism arising from the notion of dualistic discrimination. The truth is, the more you immerse yourself in discrimination, the more selfish your life will be. Moreover, from this discrimination, doubt, judgment, and imagination constantly spurt out in your mind, covering all sources of light energy in the reality-stream of the mind. You then become a person whose mental life is immersed in the unceasing thinking of indefinite subjects, like a crazy man who speaks nonsense all day long without knowing what he is saying. Consequently, living in such a status, you lose the life of yourself and simultaneously ruin the ability of being free and peaceful in the stream of life. On the contrary, you have the capacity to live freely and calmly in the rise and fall of life—the lifestyle of the noble practitioner—whenever all notions of dualistic discrimination are given up.

Furthermore, as we have mentioned, the end goal of Prajñāpāramitā in speaking of the principle of “non-discrimination” is to awake you from the trap of the individual self, which is always the greatest obstruction causing all kinds of anxiety and suffering in your mental life. Actually, the individual self is that which variously separates you into different modes: gain, loss, success, failure, love, hatred, fame, shame, etc. This individual self is also an inner obsession with which you always carry in mind from the first day when you understand crying and laughing. Surrounding this individual self is nothing other than the chain of conditions that constantly rise and fall in every moment, although you think that they are all about you. For this reason, the Prajñāpāramitā-light of non-discrimination is the precious sword able to cut off all bonds of self-love and self-pride and let the mind return to its original state of purity—the reality-stream of non-self, which is endlessly flowing. This reality-stream of non-self (also called the Buddha-nature) is indeed the essential nature or fountainhead of the mind. For this reason, an expression of the Prajñāpāramitā stresses that “the shore is here as you turn your head.”

The discovery that our real lives do not actually need a “self” to exist is enchanting—just as in the case of a rose, you may call it by any other name, but its sweet essence remains the same. Your real life does not need a name; your real happiness does not need a name either. Be nameless once to enjoy your real life!





4. Dream



Dear Friends,

Where are you from

When you weren’t born

Where will you go

When this life doesn’t go on?

Yes, this question sounds naïve and quite alien to your practical life in the here and now; however, it is a golden hand that wakes you up and helps you overcome the rocky world of illusive imagination so that you can return to your own inner peace that is, by nature, infinite and endless. The Heart Sutra would like to share an idea with you: “what you are” is just a dream! Not everything has an independent entity (the characteristics of all things are empty); in other words, you and your world exist as an existence of inter-being made up by countless conditions.

Indeed, what you have and what you are in your dreams are definitely ephemeral and provisional, but they are absolutely not real. For instance, when your eyes are sick, you see multiple flowers flying throughout in the sky, but when your eyes stop being sick, those flowers instantly disappear. Similarly, in the reality of a dream you feel that everything is true, but it is true in the dream only; once you wake up, all that has happened in your dream no longer exists. The same can be said of nature of life.

Some questions may help you understand the nature of why we say that “what you are” is just a dream! Did you have a name before being born? Once you were born, was your name all about you or just simply a label that represents you in identifying you from others? Furthermore, is your body (of bone, flesh, and blood) a perpetual substance or is it ever-changing and must be extinguished at a certain time? Truly such questions show that your real person is not perpetual, let alone your physical, verbal, and mental actions. Thus, should it be that “what you are” or what you called the “I,” “mine,” and “my self” is just a dream? If this be true, it is really foolish to trade your happiness for suffering by trying too hard just to embrace the notions of the unreal things: “I,” “mine,” and “my self”!

Thinking in this way helps understand that “all existences are just a dream,” even the notions of birth, death, defiled, pure, increased, decreased, etc. They are all hypotheses of our imaginations, simply the embodiments of attachment and discrimination from the mind. Only by transcending all these dualistic discriminations can we step into a new horizon, the reality of true happiness in which all our linguistic functions become ineffective.

How then can you wake up from the world of dreams? Indeed, this is an extremely earnest question, particularly when you are facing yourself alone. To be awake, you don’t have to do anything extra at all, only practice looking deeply and durably into what is rising and falling around you as well as inside your body (your breath, for instance). In other words, try to look deeply into things as they really are. Practicing this over a long period will help you see that life is but a dream. To do the same thing, day in and day out, you will certainly create for yourself a great tolerance and generosity, giving you the ability to give up what is needless for your life—sadness, hatred, envy, craving, grasping, etc.—or simply destroying the dark energy, as we have already mentioned. Once these cravings and graspings are renounced, your heart of compassion will blossom right in the ocean of suffering. Like a swan leaving the lakes, you will live a peaceful life free from all delusions and worldly bondage right in this body and this world. You don’t have to wait until completing all desires in this human world and ascending to heaven because such a journey will never happen.

Just ask yourself what, until this very moment, have you grasped firmly in your hand during a short and ever-changing life of humanity? Instead of someday leaving the world with your uncompleted desires full of gains, losses, successes, failures, etc., why don’t you here and now live a peaceful life with the present happiness—a happiness without self? The truth is, you may enjoy this non-self happiness only when you are alive as such. It is important to note that, when you are immersed in the world of dreams and imagination, you lose your real life.





5. On the Other Side of Imagination



Dear Friends,

What foundation enables you to see that existence is just a dream? This is a crucial question, a golden key that opens the door of the thousand-year illusion and allows you to step into the reality-stream of happiness, a state that exists on the other shore of imagination only.

The Heart Sutra, as you have seen, has used a series of consecutive negations also known as negation of negation in order to break down any notion of discriminations such as existence, non-existence, birth, death, annihilation, permanence, similarity, difference, coming, going, etc. More simply, it is the negation of any discrimination and attachment, even when that discrimination or attachment is identified as samsāra (sentient world of birth and death) or nirvāna (liberation from birth and death). Such a mode of negation is used to destroy our world of conceptual and individual distinctions and let us return to the blissful state of non-discrimination, purity, tranquility, and equanimity—the world without confusion and imagination, the fountainhead of living reality without self. The most important thing to note is that we may able to obtain that world of non-discrimination not at the end of our lives, but right in this moment, in the here and now, within this body and this mundane world.

For example, the auditory sense of you ten years ago, when you were a young adult or even a little kid, and now (i.e., ten years later)—is it different or the same? Yes, it is still as such. Your auditory ability may change over the course of time, but your auditory sense—like the original source of mind that goes beyond all notions of birth or death—never changes, although your use of it may vary according to different circumstances or you may be governed by it even in silence. The fact is, whenever the noise appears, the auditory sense also appears, simultaneously and naturally. The nature of your auditory sense is without distinction; it accepts both the good and the bad noises freely and naturally. Similarly, your body changes, getting old in the course of time according to the law of impermanence; however, your true mind, also known as the Buddha nature, remains the same. It is important to note that, although you age, your mind doesn’t. Therefore, as long as you are able to keep your childish mind, or take the childish mind as the foundation of your life, you remain the authentic merry child living in a beautiful and peaceful world. You should not become attached to the concept of age too much because the nature of age is nothing more than the accumulation of pleasure and sadness in life, although one often considers age or agedness as an important factor. In the reality of mind-stream, age or agedness has no special meaning; it has nothing to do with the reality of mind-stream. In the world of confusion and imagination, however, agedness is quite impressive because of the connection linking all rising and falling events in one’s life.

Yet how can you return to your childhood when your hair’s color has changed to gray and your skin has transformed into wrinkled folds? Yes, here we thank the Heart Sutra for giving us the miracle that is the way of equanimity and non-attachment. Even our attachment is based on the desire to reach the perpetual world of nirvāna. You may be surprised at why nirvāna—the greatest nobility any practitioner wants to obtain and, in principle, the world of blissfulness transcending any state of birth and death—is not considered the object of even a sincere desire. This is because when we perceive nirvāna as something completed different from samsāra, as is recommended by our habit of thinking, such a perception sounds rational and correct according to our intellect; however, in reality such perception still carries within itself a dimension of dualistic discrimination whereas the stream of reality endlessly flows, free from any discrimination of either samsāra or nirvāna. Like the nature of wine, it doesn’t have the “drunk essence”; only man makes himself “drunk.” Likewise, the terms and definitions of both samsāra and nirvāna are used here as a conventional truth, not an absolute truth. For this reason, in the Heart Sutra, a series of consecutive negations is employed skillfully to finally end with the proclamation that “There is no knowledge and no attainment whatsoever” (na jñānaṃ na prāptir nābhisamayas). A true awaking appears in our minds on the way to enlightenment, like an old man suddenly transformed into a little kid when he himself places down all burdens of attachment in his mind to play with the children.

Similarly, until you have truly and sincerely lived in equanimity and non-attachment—i.e., beyond all barren discriminations—your capacity of enlightenment cannot become true. Only then will you become a Buddha and Buddha will become you. In the language of Prajñāpāramitā, we may say that samsāra and nirvāna are not differential (samsāram eva nirvānam). Yes, such is the destination of Prajñāpāramitā. There, on the other shore of imagination, the mind is free from birth and death! The journey there succeeds through non-attachment and non-discrimination.

The waves come and erase the empty trace,

Suddenly, the boat arrives on the other shore of Tathagata!





6. A Way for Those Who…



Dear Friends,

Once again, you should ask yourself what is the purpose of your life? Should it be happiness and truth? To a certain extent, happiness and truth are the same; when you discover truth, you simultaneously achieve happiness. In our habitual thinking and intellect, happiness and truth conventionally differ; in the ultimate truth, however, they are not at all different from one another.

Likewise, when the Bodhisattva Avalokitésvara directly perceived that existence is just a dream, he simultaneously overcame all troubles and sufferings in the sense of “living free” from all confusions and delusions in the world. The foundation of such a noble life of freedom has been summed up as the principle of spiritual experience expressed in the Heart Sutra: “By reason of non-attainment, the Bodhisattva dwelling in Prajñāpāramitā has no obstacles in his mind. Because there are no obstacles in his mind, he has no fear, and going far beyond all perverted views, all confusions and imaginations, reaches the ultimate Nirvāna.” This is the way for those who are hesitating at the crossroads separating life into two parts prejudicially: the mundane and the divine.

In reality, we live in the complexity of discriminations with a mind that is also covered by the complexity of discriminations. It is this complexity of discrimination that forces us into the world of choices; it is the choice that always carries within itself an inclination to distinguish and divide any thing you hold in hand, even though that is nirvāna. The truth is, on the path to happiness and truth, the more you want to choose, the more confused you will become. As a result, the way of choices is not a real exit leading to inner peace. Overcoming sufferings in the sense of “living free” from all confusions and delusions in the world is a practical way of Prajñāpāramitā, capable of leading to the present happiness, here and now.

However, you may wonder what will happen to your life if you give up all the complexity of discriminations? Won’t the world be empty? Ruined? No, it is not like that. When all the complexity of discriminations are set down, you will truly put yourself in the reality-stream of happiness while your heart of great compassion will simultaneously be awaked. The heart of great compassion is the very source of life; it nurtures your sainted mind and, like a guardian boat, saves the lives of others as well. The great compassion and perfect wisdom (prajñāpāramitā) are always the career of a Buddha or a Bodhisattva. Living with the great compassion, you never feel fatigued or bored in helping and benefiting others, even when your forehead is full of sweat. Streams of tears may sometimes flow down your cheeks in harmony with the sufferings of others or of those who are wandering the streets with hunger and sickness. The great compassion is an immortal flower. Indeed, you cannot live a life of true happiness without the heart of great compassion.

In brief, until you give up all complexity of discrimination, your mind will be as light and space will come together. No trace of self can exist in such a mind free from all attachments; therefore, you overcome all illusive obstacles. The Heart Sutra stresses that, “Because there are no obstacles in his mind, he has no fear, and going far beyond all perverted views, all confusions and imaginations, reaches the ultimate Nirvāna.” This is when nirvāna is unveiled in this mundane world—the time you truly live a nirvāna life. The inheritance you now accept and move forward in life is the heart of great compassion and perfect wisdom.



Ending words:

Dear Friends,

The Heart Sutra truly is a precious sword with which we can cut off all afflictions in our world. However, only once you apply the teachings from the sutra into your daily practice, you will truly appreciate the miracle flavor of it. The questions that may appear in your mind (if any) will be answered by your own practice of equanimity and non-attachment because our barren language is unable to describe that which is itself beyond language. Like love, nobody can describe it exactly, except the inner experience in silence. What we may, to a certain extent, study from the Heart Sutra is to make our life become significant, transcending all complexity of the profane mind to live a life free from all delusions and afflictions and to benefit all sentient beings. Before leaving this message, please keep in mind that, with the fearless spirit, you—as a peacefully awake person—enter the world to build nirvāna because the home-country of nirvāna is nowhere else but this mundane world!



Gate gate pāragate pārasaṃgate bodhi svāhā!

Namo Avalokitésvara Bodhisattva.



Phụ Lục: II

Words of the Heart of Wisdom



Khải Thiên



Bạn thân mến,

Lời dưới đây được viết từ những xúc cảm

thành kính sâu xa của tác giả khi qùy trước cái đẹp kỳ vĩ và nhiệm mầu

của kinh Trái Tim Tuệ Giác Vô Thượng.



Dear Friends in Dharma,

The following words stem from the deeply esteemed respect

of the author as he knelt in front of the miracle sublime of

the Prajñāpāramitā Hrdaya Sūtra.



Los Angeles August, 2007





* Cuộc sống hạnh phúc thực thụ của bạn vốn không cần đến một bản ngã để hiện hữu.

(Your true life of happiness does not actually need a “self” to exist.)



* Tự ngã là cái mà nó luôn chia rẻ con người của bạn theo nhiều cách khác nhau: được, mất, thành, bại, tình yêu, hận thù, danh vọng, và tủi nhục.

(The individual self is that which variously separates you into different modes: gain, loss, success, failure, love, hatred, fame, and shame.)



* Bạn có thể sống một cách bình yên, tự tại giữa đời sống thăng trầm khi nào mọi ý niệm về tự ngã được buông bỏ.

(You are able to live freely and peacefully in the rise and fall of life whenever all notions of self are given up.)



* Khái niệm về tự ngã thực chất chỉ là một ảo tưởng.

(The concept of “self” is but an illusion.)



* Bản ngã cá thể, nó luôn luôn là chướng ngại lớn nhất gây nên mọi nỗi bất an và đau khổ trong cuộc đời của bạn.

(The individual self is always the greatest obstruction causing all kinds of anxiety and suffering in your life.)



* Sự thật là, càng đắm chìm trong phân biệt, cuộc sống của bạn càng trở nên ích kỷ.

(The truth is, the more you immerse yourself in discrimination, the more selfish your life will be.)



* Do sự phân biệt của tự ngã mà những nghi ngờ, phán xét, và tưởng tượng không ngừng tuôn trào trong tâm trí của bạn, chúng phủ lấp mọi nguồn sáng trong cuộc sống của bạn.

(From the discriminations of self, doubt, judgment, and imagination constantly spurt out in your mind, covering all sources of light energy in your life.)



* Khi sa đà trong những suy tưởng miên man bất định, bạn trở thành một gã điên, y cứ nói nhảm suốt ngày mà không biết mình nói cái gì.

(Immersed in the unceasing thinking of indefinite subjects, you become a crazy person who speaks nonsense all day long without knowing what he is saying.)



* Càng để lối sống của bạn dựa trên phân biệt, bạn sẽ càng căng thẳng và bức bách.

(The more you base your lifestyle on discriminations, the more stressful and uncomfortable you will to be.)



* Thật là khờ dại khi phải chấp nhận khổ đau để đổi lấy hạnh phúc bằng cách ráo riết ôm lấy những ý niệm hão huyền về “cái tôi”, “cái của tôi”, và “cái tự ngã của tôi”.

(It is really foolish to trade your happiness for suffering by trying too hard just to embrace the notions of the unreal things: “I,” “mine,” and “my self”!)



* Khái niệm “vô phân biệt” trong tư tưởng Phật giáo dĩ nhiên không có nghĩa là “không biết tốt, xấu”, nhưng nó là một “thách thức” đối với sự bám víu vào cái tự ngã độc tôn và vị kỷ ở mỗi con người.

(The concept of “non-discrimination” in Buddhist thought of course does not mean “not knowing what is good or what is bad,” but in stead it is a “challenge” to the attachment to the independent self of each individual—or simply, the egocentric view.)



* Điểm duy nhất làm cho “sóng” khác với “nước” chính là những biểu hiện của nó.

(The only point that makes waves different from water is the waves’ manifestation.)



* Sự phân biệt sinh khởi từ ngã kiến chính là con đường đưa đến những bám víu cố hữu nó rốt cuộc sẽ làm băng hoại cái khả tính sống hạnh phúc và tự tại của bạn.

(Discrimination emerging from the self-view is the very way leading to stubborn attachment, which eventually ruins your ability of living peacefully and free of all delusions.)



* Càng quan sát về “sóng” và “nước”, bạn càng hiểu rõ cái tác dụng và sự nguy hiểm của phân biệt-nhị nguyên, nhất là khi sự phân biệt này nổi lên trong cơn khát của sự bám víu cuồng si vào “cái tôi”, “cái của tôi”, và “cái tự ngã của tôi.

(The more you observe the water and waves, the more you understand the effectiveness and danger of the dualistic discrimination, particularly when this discrimination arises in the thirst of your crazy attachment to the “I,” “mine,” and “my self”.)



* Nếu nhìn vào hiện tượng, ta sẽ thấy rằng khổ đau và hạnh phúc rất khác nhau, cũng như vui và buồn. Tuy nhiên, nếu nhìn sâu vào bản chất của chúng, ta sẽ thấy rằng cả khổ đau và hạnh phúc đều sinh khởi từ một nền tảng, đó là tâm thức.

(If we look at the phenomena, suffering and happiness are quite different from one another, like pleasure and sadness. However, if we look deeply into their nature, we can see that both suffering and happiness arise from the same foundation: the mind.)



* Thật vậy, vui sinh khởi từ tâm, buồn cũng thế. Hạnh phúc và khổ đau tất cả đều là những biểu hiện từ tâm.

(Indeed, pleasure arises from the mind, as does sadness. Suffering and happiness are all manifestations from the mind.)



* Cuộc sống thực thụ của bạn không cần một tên gọi, hạnh phúc thực thụ của bạn cũng không cần một tên gọi; bạn ơi, hãy một lần không tên để thưởng thức hạnh phúc của chính mình!

(Your real life does not need a name; your real happiness does not need a name either. Be nameless once to enjoy your real life!)



* Điều mà kinh Trái Tim muốn chia sẻ với bạn đó là: “cái bạn đang là” là một cõi mơ!

(The Heart Sutra would like to share an idea with you: “what you are” is just a dream!)



* Trong thực tại của mộng bạn cảm giác rằng mọi thứ đều là thật, nhưng nó chỉ thật trong mộng mà thôi; đến khi tỉnh giấc, tất cả những gì diễn ra trong mộng đều không còn nữa. Cuộc sống của chúng ta cũng là như thế.

(In the reality of a dream you feel that everything is true, but it is true in the dream only; once you wake up, all that has happened in your dream no longer exists. The same can be said of our life.)



* Càng thực tập không bám víu, chúng ta càng hạnh phúc hơn.

(The more we practice non-attachment, the happier we will be.)



* Cho đến khi nào mọi gánh nặng của sự bám víu vào cái được, mất, hơn, thua, danh vọng, quyền lực, vân vân, được phóng thích khỏi tâm trí, lúc bấy giờ chúng ta sẽ thực thụ tự do thưởng thức cái hạnh phúc chân thật hiện tiền.

(Whenever all the burdens of attachment to gain, loss, win, failure, fame, power, etc., are released in our minds, we are then truly free and able to enjoy true happiness right here and now.)



* Khoảnh khắc hạnh phúc nhất của cuộc sống sẽ đến khi nào cái tự ngã ra đi.

(The happiest moments in life come when the individual self goes.)



* Sự khám phá rằng cuộc sống thực thụ của chúng ta không cần đến một bản ngã để hiện hữu quả là điều thú vị, cũng như hoa hồng, cho dù bạn có gọi tên nó là gì đi nữa thì hương vị ngọt ngào của nó vẫn là như thế.

(The discovery that our real lives do not actually need a “self” to exist is enchanting—just as in the case of a rose, you may call it by any other name, but its sweet essence remains the same.)



* Để tỉnh thức, bạn không cần phải làm thêm bất cứ điều gì hết, bạn chỉ cần thực tập nhìn thật lâu và thật sâu vào những gì đang sinh khởi và hoại diệt chung quanh bạn cũng như trong cơ thể của bạn (hơi thở, chẳng hạn).

(To be awake, you don’t have to do anything extra at all, only practice looking deeply and durably into what is rising and falling around you as well as inside your body (your breath, for instance.)



* Điều quan trọng cần lưu ý rằng, mặt dù bạn có tuổi, nhưng tâm hồn của bạn không có tuổi.

(It is important to note that, although you age, your mind doesn’t.)



* Cho đến khi nào bạn thực sự sống xả ly, không bám víu, khả năng giác ngộ của bạn mới có thể trở thành hiện thực.

(Until you have truly lived in equanimity and non-attachment, your capacity of enlightenment cannot become true.)



* Sự thức tỉnh thực thụ xuất hiện trong tâm thức trên con đường giác ngộ cũng như một ông già bổng biến thành trẻ con khi ông ta đặt xuống mọi gánh nặng bám víu trong tâm thức để chơi với đám trẻ.

(A true awaking appears in our minds on the way to enlightenment, like an old man suddenly transformed into a little kid when he himself places down all burdens of attachment in his mind to play with the children.)



* Trong dòng thực tại của tâm, tuổi tác hay sự già nua chẳng có một ý nghĩa đặc biệt nào.

(In the reality of mind-stream, age or agedness has no special meaning.)



* Trong thế giới cuồng si mộng tưởng, tuổi tác qủa là ấn tượng bởi vì sự cấu kết của nó với những biến cố thăng trầm trong kiếp người.

(In the world of confusion and imagination, agedness is quite impressive because of its connection linking all rising and falling events in one’s life.)



* Bạn không nên bám víu quá nhiều vào khái niệm tuổi tác vì bản chất của nó không gì khác hơn là sự tích tụ của vui, buồn trong đời sống mà thôi.

(You should not become attached to the concept of age too much because the nature of age is nothing more than the accumulation of pleasure and sadness in life.)



* Bao lâu bạn còn giữ được tâm hồn trẻ thơ hay lấy tâm hồn trẻ thơ làm nền tảng cho cuộc sống, thì bấy lâu bạn vẫn trọn vẹn là đứa trẻ vui đùa, sống trong một thế bình yên, tươi đẹp.

(As long as you are able to keep your childish mind, or take the childish mind as the foundation of your life, you remain the authentic merry child living in a beautiful and peaceful world.)



* Khả năng nghe của bạn có thể thay đổi theo thời gian, nhưng thính giác của bạn, cũng như nguồn tâm thức uyên nguyên vượt lên trên mọi khái niệm sống chết, nó không hề thay đổi.

(Your auditory ability may change over the course of time, but your auditory sense—like the original source of mind that goes beyond all notions of birth or death—never changes.)



* Bạn chỉ có thể thưởng thức cái hạnh phúc vô ngã khi nào bạn sống đích thực.

(You may enjoy the non-self happiness only when you are alive as such.)



* Điều quan trọng cần ghi nhận rằng khi bạn đắm chìm trong thế giới mộng tưởng, bạn đánh mất cuộc sống thực thụ của mình.

(It is important to note that, when you are immersed in the world of dreams and imagination, you lose your real life.)



* Bạn có thể đạt đến cõi hạnh phúc thực thụ không phải ở đoạn kết của cuộc đời mà ngay bây giờ và ở đây, ở khoảnh khắc này, ngay nơi thân xác này và thế gian này.

(You may able to obtain the realm of true happiness not at the end of your life, but right in this moment, in the here and now, within this body and this mundane world.)



* Thử tự hỏi: cho đến giờ phút này bạn đã cầm chắc trong tay được cái gì giữa đời sống ngắn ngủi và không ngừng thay đổi của con người?

(Just ask yourself what, until this very moment, have you grasped firmly in your hand during a short and ever-changing life of humanity?)



* Thay vì một ngày nào đó bạn sẽ phải từ giã thế giới này với những ước vọng chưa hoàn thành còn đầy ắp được, mất, hơn, thua, tại sao không bây giờ và ở đây sống an bình với hạnh phúc hiện tại, một hạnh phúc không bản ngã.

(Instead of someday leaving the world with your uncompleted desires full of gains, losses, successes, failures, why don’t you here and now live a peaceful life with the present happiness—a happiness without self?)



* Như những con thiên nga rời ao hồ, bạn chắc chắn có thể sống bình yên và tự tại giữa mọi ràng buộc và lụy phiền thế gian với chính con người này và thế giới này.

(Like a swan leaving the lakes, you certainly are able to live a peaceful life free from all delusions and worldly bondage right in this body and this world.)



* Bạn không cần phải chờ đợi cho đến khi hoàn tất mọi ước vọng trong cõi người rồi sẽ thăng lên trời, vì một cuộc hành trình như thế sẽ không bao giờ xảy ra.

(You don’t have to wait until completing all desires in this human world and ascending to heaven because such a journey will never happen.)



* Để trực nhận được chân lý, bạn phải trả đôi mắt của bạn về với trạng thái tinh nguyên của nó, có nghĩa là, đôi mắt của bạn sẽ không còn bị giới hạn bởi “cái bạn đang là”!

(To truly perceive the truth, you must let your eyes return to their original state—that is, no longer limit your eyes by “what you are”!)



* Hy vọng và sợ hãi quả thực là hai yếu tố thường trực trong tâm hồn của chúng ta; nó hiện diện trong từng khoảnh khắc, thậm chí ngay cả trong chiêm bao.

(Actually, fear and hope are the two permanent factors in our minds; they exist in every moment, even in our dreams.)



* Chỉ có con mắt tinh nguyên mới có thể nhìn thấy hiện hữu như là chính nó.

(Only the pure eyes are able to observe existence as it is.)



* Bước vào hành tinh của hạnh phúc, trên nguyên tắc, không phải là một việc khó khăn hay nghiêm trọng; để đến đó, bạn không cần phải làm thêm bất cứ điều gì mà chỉ có bỏ bớt bám víu đi thôi.

(To step onto the planet of happiness is not, in principle, a difficult or serious task; to get there, you need not to do any extra work, but cut short your attachment.)



* Nếu bạn có thể đón nhận cả cái tốt lẫn cái xấu, bạn sẽ trở thành một con người vĩ đại.

(If you are able to welcome both the good and the bad together, you become a great person.)



* Bất cứ khi nào bạn làm chủ được mình, bạn sẽ làm chủ thế giới chung quanh mình.

(Whenever you are able to control yourself, you are able to control the world around you.)



* Trong một chừng mực nào đó, hạnh phúc và chân lý là một; khi bạn khám phá ra chân lý, bạn đồng thời đạt đến hạnh phúc.

(Happiness and truth, to a certain extent, are the same; when you discover truth, you simultaneously achieve happiness.)



* Điều gì sẽ xảy đến với bạn nếu bạn từ bỏ mọi đa đoan phân biệt? Thế giới sẽ trở thành rỗng không? Tan hoại? Không. Nó không phải là như thế. Khi mọi đa đoan phân biệt được đặt xuống, bạn sẽ thực thụ tắm mình trong dòng hạnh phúc thực tại trong khi trái tim đại bi của bạn tỉnh thức.

(What will happen to your life if you give up all the complexity of discriminations? Won’t the world be empty? Ruined? No, it is not like that. When all the complexities of discrimination are set down, you will truly put yourself in the reality-stream of happiness while your heart of great compassion will simultaneously be awaked.)



* Trong tập quán suy tư và hiểu biết của chúng ta, hạnh phúc và chân lý thường được xem là khác nhau; nhưng trong chiều tuyệt đối, chúng không hề khác nhau.

(In our habitual thinking and intellect, happiness and truth conventionally differ; in the ultimate truth, however, they are not at all different from one another.)



* Trên con đường đi đến hạnh phúc và chân lý, bạn càng muốn lựa chọn chừng nào, thì càng bị rối ren chừng đó.

(On the path to happiness and truth, the more you want to choose, the more confused you will become.)



* Vượt qua khổ đau trong ý nghĩa “sống tự tại” là con đường thực tiễn của trí tuệ khả dĩ đưa đến hạnh phúc trong hiện tại, bây giờ và ở đây.

(Overcoming sufferings in the sense of “living free” from all delusions is a practical way of wisdom, capable of leading to the present happiness, here and now.)



* Trái tim đại bi chính là cội nguồn của cuộc sống.

(The heart of great compassion is the very source of life.)



* Tâm từ bi là cái mà nó nuôi lớn thánh tâm của bạn và, cũng như chiếc thuyền bảo hộ, nó cứu độ tha nhân.

(Compassion is that which nurtures your sainted mind and, like a guardian boat, saves the lives of others as well.)



* Tâm đại bi và trí tuệ toàn thiện bao giờ cũng là sự nghiệp của một vị Phật hay một vị Bồ tát.

(The great compassion and perfect wisdom, the Prajñāpāramitā, are always the career of a Buddha or a Bodhisattva.)



* Với tâm đại bi đi vào đời, bạn sẽ không mệt mỏi hay chán nản ngay cả khi trán ướt đẫm mồ hôi để làm lợi ích cho chúng sinh.

(Living with the great compassion, you never feel fatigued or bored in helping and benefiting others, even when your forehead is full of sweat.)



* Có khi dòng nước mắt đại bi cũng chảy dài trên đôi má chan hòa cùng cái đau thương của những kẻ khác, những kẻ đang lang thang, thất thểu bên hè cùng với đói nghèo và bệnh tật.

(Streams of tears may sometimes flow down your cheeks in harmony with the sufferings of others or of those who are wandering the streets with hunger and sickness.)



* Tâm đại bi là đóa hoa bất tử.

(The great compassion is an immortal flower.)



* Bạn, quả thực, không thể sống hạnh phúc nếu thiếu vắng tâm đại bi.

(Indeed, you cannot live a life of true happiness without the heart of great compassion.)

===End===

[i] Conze, Eward. The Prajñāpāramitā Literature. New Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers. 2000. pp. 1-10.

[ii] Conze, Edward (trans.). The Perfection of Wisdom in Eight Thousand Lines and Its Verse Summary, 5th Ed. Delhi: Sri Satguru Publications, 1994. p. xi.

[iii] Về tư tưởng Bát Nhã, xem Suzuki, Daisetz T. Essay in Zen Buddhism. New York: Grove Press, 1961. Về bản kinh Bát Nhã đầu tiên (Bát Nhã Bát Thiên Tụng), xem Conze, Edward (trans.). The Perfection of Wisdom in Eight Thousand Lines and Its Verse Summary, 5th Ed. San Francisco: Four Seasons Foundation, 1995.

[iv] Các bản Hán dịch khác nhau của Tâm kinh có thể tìm đọc trong Đại Tạng Kinh, Đại Chính Tân Tu, (大正新修大藏 經) Taishō No. 252, 253, 254, 255…Ta Cheng Hsin Hsiu Ta Tsang Ching. Japan. Da Zheng Xin xiu Da Zang Jing. Kan Xing Hui. 1969.

[v] The “Heart Sutra”, one of the sublimest spiritual documents of mankind, is a restatement of the four Holy Truths, reinterpreted in the light of the dominant idea of emptiness.” See Conze, Eward. The Prajñāpāramitā Liturature. New Delhi: Munshiram Manoharlal Publishers. 2000. p. 11.

[vi] Xem Thích Tâm Thiện. Lịch Sử Tư Tưởng và Triết Học Tánh Không. NXB Tp.HCM.1999.

[vii] “Hữu” (có), “vô” (không), “sinh” (sinh khởi), “diệt” (đoạn diệt), “thường” (thường hằng), “đoạn” (không thường hằng), “đồng” (giống), “dị” (khác), “khứ” (đi), “lai” (đến).

[viii] Nagarjuna. Mūlamadhyamakakārikā. Chapter XXV, vv. 19–20. See: 大正新修大藏經 Taisho 1564 (Cf. Nos 1564–1567), Vol. 30, pp. 01.30 (Chinese version).

[ix] Upeksā is a state of mind that can be translated into English as renunciation, equanimity, indifference, relinquishment, renunciation, abandonment, etc.

~oOo~

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét