2/9/08

HỌC CÁCH LẮNG NGHE

I. PHÁP TU NHĨ CĂN VIÊN THÔNG

Sau khi đã ý thức được điều kiện mở gút các căn, ông Anan, nhân vật chánh đối thoại với đức Phật trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, mới thỉnh cầu Ngài chỉ dạy thêm cho ông biết phải tu căn nào mới được viên thông ?
Đức Phật bèn bảo 25 vị thánh trong pháp hội trần thuật lại pháp tu nào đã giúp họ chứng đắc đạo qủa.
Lần lượt 25 vị A La hán và Bồ Tát đứng lên trình bày pháp tu chứng của mình. Trước tiên có 6 vị giải bày rằng nhờ tu 6 trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp mà được thành đạo. Kế đó có 5 vị cho biết nhờ tu nhãn, tỷ, thiệt, thân, ý căn mà được viên thông. Tiếp theo có 6 vị tu lục thức chứng được viên thông. Còn có 7 vị khác nhờ tu 7 đại mà cũng chứng được đạo quả. Vị thứ 25 cũng là Bồ Tát Quán Thế Âm trần thuật trước Phật và pháp hội pháp VĂN, TỰ, TU (nghe, suy tư và tu tập) của Ngài.
Ngài nói khi vừa nghe âm thanh, Ngài liền xoay cái nghe đó trở vào Chơn tâm, nhờ đó thể nhập được Chơn tâm thanh tịnh, chứng được hai quả thù thắng, đó là trên chỉ hiệp với đức tánh Từ độ của chúng sanh. Ngoài ra Ngài còn hiện ra 32 ứng hóa thân hộ độ chúng sanh khiến cho họ được 14 món vô úy và 4 món vô tác vi diệu, khó thể nghỉ bàn.
Sau khi 25 vị A La Hán và Bồ Tát trình bày xong, Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi hãy chọn lựa một pháp môn nào trong số 25 pháp tu chứng của các vị A La Hán và Bồ Tát, có khả năng giúp cho ông A nan và các chúng sanh đời sau để thành đạo vô thượng Bồ Đề.
Bồ Tát Văn Thù nói rằng pháp Đại Thừa vốn có nhiều, pháp nào cũng có thể giúp đạt kết quả tốt, tuy rằng đối với người tu sơ cơ thì thấy dường như có pháp dễ, có pháp khó.
Ngài nhận định rằng trong cõi Ta Bà, Phật đã dùng lời nói để thuyết pháp, còn chúng sanh thì dùng nghe đễ lãnh hội, do đó cũng nên dùng pháp tu nhĩ căn để tu chứng tam muội. Bồ Tát Văn Thù liền xưng tán nhĩ căn vì nhĩ căn thông cùng khắp và có 3 đức tánh viên, thông và thường hơn hẳn các căn khác. Viên là tròn, giúp mình nghe được âm thanh khắp 10 phương, thông là không ngăn ngại vì mình có thể nghe cách vách, nghe được tiếng xa, tiếng gần thường vì tánh nghe vẫn hoạt động dù mình đang hôn mê hay đã chết.
Bồ Tát Văn Thù cũng không quên tán thán công đức của Bồ Tát Quán Thế Âm vì Bồ Tát đã chứng được tánh nghe nhiệm mầu, ứng hợp với mọi hoàn cảnh nhưng vẫn không rời chơn tâm thanh tịnh.
Dưới đây là bản văn pháp tu nhĩ căn viên thông trích từ bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm.

1. PHÁP TU NHĨ CĂN VIÊN THÔNG

Pháp này gồm có 3 giai đoạn sau đây :
Giai đoạn 1: Sở ư văn trung, nhập lưu vong sở, sở nhập kỷ tịch, động tịnh nhị tướng, liễu nhiên bất sanh.
Tạm dịch : Trước tiên trong chỗ nghe, liền đưa những gì mình nghe nhập vào tánh nghe (chơn tâm), nhờ vậy mà quên đi những gì đã nghe. Khi chỗ nhập đã yên ỗn thì hai tướng động tịnh rốt ráo không còn nữa.
Giai đoạn 2: Như thị tiệm tăng, văn, sở văn tận, tận văn bất trụ, giác, sở, giác không, không giác tịch viên.
Tạm dịch : Như thế cứ tăng dần, cái nghe và cái bị nghe đều đứt. Nhưng không trụ ở chỗ hết nghe. Cái biết rằng mình không trụ như thế và cái bị biết (chính là sự việc mình không trụ ở chỗ hết nghe) cũng không. Cuối cùng cái biết “tướng không” ấy được tăng trưởng đến mức độ tròn đầy, vắng lặng.
Giai đoạn 3: Không, sở Không diệt, sanh diệt dĩ diệt, tịch diệt hiện tiền.
Tạm dịch : Cái biết tướng không và cái tướng Không là cái bị biết, cả hai cũng dứt luôn. Đến đây cãnh giới sanh diệt, đối kháng hoàn toàn mất, chỉ còn trạng thái tịch diệt, vắng lặng tuyệt đối mà thôi.
Cả ba giai đoạn trên đây đều nhằm tạo cái “không” trong đầu của hành giả. Giai đoạn 1 là không nghe, giai đoạn 2 là không biết, giai đoạn 3 là không cái không biết tức là cái không biết cũng không luôn.
Nếu chúng ta chấp văn tự thì chúng ta liền rơi vào lối suy diễn của Nhị Thừa vốn chấp Không: không nghe, không biết, không cái không biết. Thật vậy, Nhị Thừa chủ trương không nghe, không biết vì họ muốn dứt bặt thọ và tưởng để từ đó có thể đi vào cái không, tuyệt đối vắng lặng.
Chúng ta thử phân tích từng giai đoạn một như sau.
Trong giai đoạn 1, hành giả đưa cái gì đã nhe nhập vào bản thể thanh tịnh của Chơn tâm, cốt đễ quên cái đã nghe. Nhập được yên ổn rồi thì 2 tướng động, tịnh không sanh. Động là nghe, tịnh là không nghe. 2 tướng này cũng chi là 2 tướng đối đãi về mặt văn tự, chớ thật ra không có ý nghĩa gì trong vấn đề thể hiện trạng thái vắng lặng tuyệt đối, bởi lẽ trong giai đoạn 2, hành giã còn phải lo dứt trừ cái biết, mà cái biết tức là tưởng động.
Mục đích của giai đoạn 1 là nhằm làm bặt cái khả năng nghe âm thanh của lỗ tai, y hệt như nhét bông gòn hay bịt lỗ tai vậy.
Trong giai đoạn 2, hành giả không còn nghe gì nữa, nhưng còn biết, biết rằng mình đã hết nghe. Cái biết này xuất phát từ ý thức, cũng phải dứt luôn. Dứt bằng cách nào ?
Phải chăng bằng cách đè bẹp tư tưởng biết, giống như người ta lấy đá đè cỏ. Tư tưởng biết sẽ tạm thời chấm dứt, nhưng sau đó sẽ tiếp tục xẹt ra trong đầu, vì tư tưởng là dòng thác từ nguồn đổ xuống làm sao chận được ?
Vẫn biết rằng hàng Nhị Thừa có thể làm tê liệt 6 thức, từ nhãn thức cho đến ý thức nhưng họ chỉ có thể tạm thời làm được công việc vô bổ này mà thôi. Do đó câu “không giác tịch viên”, hoàn toàn không đúng với chơn lý.
Đến giai đoạn 3, hành giả phải dứt bặt hết mọi tư tưởng như tư tưởng biết mình không còn nghe nữa, tư tưởng biết mình đang ở trong trạng thái trống không. Dứt bặt kiểu này là dứt bặt mọi cảm thọ liên quan đến cái nghe, dứt bặt tư tưởng biết mình hết nghe, biết đầu mình đang rỗng không.
Câu “không, sở không diệt” được ghi trong giai đoạn 3 thật hết sức khó hiểu. Vì sao ? Bởi lẽ nó quá vắn tắt, khiến cho chúng ta phân vân về ý nghĩa của chữ không. Ở trên đả đề cập đến “ không giác” là cái biết mình đã không còn nghe nữa, nay lại nói đến chữ Không. Phải chăng nó hàm ý rằng hành giả biết mình đang ở trong trạng thái rỗng không. Đây là cái năng biết, còn trạng thái rỗng không là cái bị biết mà kinh gọi là sở không. Còn phân biệt năng, sở tức là còn trong vòng đối đãi. Vì thế kinh dạy phải diệt phải dứt trừ cái tâm phân biệt này mới có thể đạt được trạng thái tịch diệt.
Trạng thái tịch diệt là như thế nào ?
Theo phương pháp này thì hành giả phải ở trong trạng thái không còn nghe, không còn biết gì hết, thậm chí không biết mình có còn thở nữa hay không ? Đó là trạng thái tịch diệt của người hành pháp Thiền DIỆT TẬN ĐỊNH, hoàn toàn vô tri, vô giác, như gỗ đá.
Xét cho chung, pháp tu nhĩ căn viên thông như được trích trên đây không khác gì pháp Thiền Diệt Tận Định.
Như thế thì pháp tu này có tánh không thiết thực, khó thực hành đối với người đời, vì người đời trong ngày lúc nào cũng nghe đủ thứ âm thanh, từ những lời chửi mắng, chê trách, gièm pha đến những lời nịnh hót, tâng bốc, ngợi khen. Không lẽ khi mới vừa nghe một tiếng nói nặng của người láng giềng, mình vội chạy vào phòng riêng để thực hành pháp tu nhĩ căn hay sao ?
Chỉ có những đạo sĩ, các hàng Nhị Thừa, sống cô đơn, xa lánh cuộc đời, nơi rừng sâu, núi thẳm, mới có thể hành pháp Thiền Diệt tận định, nói cách khác, hành pháp tu nhĩ căn viên thông như trên đã trình bày. Chúng ta nhớ lại trường hợp ông Xá Lợi Phất đang nhập Diệt Tận định dưới gốc cây trong rừng bị ông Duy Ma Cật chỉnh một phen mà không biết cách nào để đối đáp.
Nhiều nhà tu hành gọi pháp tu nhĩ căn viên thông là đại định hay tam muội Thủ Lăng Nghiêm. Gọi như thế có phần nào không đúng, bởi lẽ Thủ Lăng Nghiêm tượng trưng cho trí huệ Phật, do đó khi đã nhập tam muội Thủ Lăng Nghiêm thì không có pháp chi mà hành giả không liễu ngộ. Đằng này, trong tiến trình nhập Diệt tận định với pháp nhĩ căn viên thông, hành giã hoàn toàn không biết gì nữa hết, thì làm sao gọi là liễu ngộ các pháp. Biết với tâm vô trụ mới gọi là liễu ngộ, là trí huệ.
Người tu Phật Thừa luôn luôn niệm rằng hề mang thân tướng nào thì phải sống và tiếp xúc với cảnh giới thân tướng đó, nghĩa là không lìa cảnh giới nhộn nhịp của người đời, vì nếu, lìa thì không thể nào biết các pháp để rồi, sử dụng chúng một cách vô ngại.
Với quan niệm trên, chúng ta phải sống với đời, sử dụng nhĩ căn của mình để nghe trọn vẹn mọi thứ âm thanh ở trên đời, nghe nhưng không để bị nhiễm, bị lôi cuốn, vì nếu để bị ngoại cảnh lôi cuốn thì tâm mình sẽ mê mờ, làm sao biết được thực tướng của các pháp, làm sao nhập được bản thể chơn như ?
Vì thế Chân sư của chúng tôi gọi pháp tu nhĩ căn viên thông với cái tên mới cho phù hợp với thời đại ngày nay. Đó là pháp nghe mà như không nghe, mà là nghe như thật, còn gọi là pháp lắng nghe, lắng nhìn vô sở thọ.
Pháp này không khác pháp chiếu Kiến trong Tâm kinh, vì chiếu kiến hay chiếu soi của cặp mắt là thấy, nhìn, chiếu, soi của lỗ tai là nghe.

2. PHÁP LẮNG NGHE, LẮNG NHÌN VÔ SỞ THỌ.

Trong phần trình bày trên đây, chúng tôi chỉ đề cập đến pháp lắng nghe vì các sự thấy, nghe, hay, biết của mình đều là những cảm thọ của lục căn có cùng một tánh chất. Thật vậy, chúng ta thọ vui, thọ khổ, thọ không vui không khổ, chớ không có cách cảm thọ nào khác hơn.
Do đó, chúng ta chỉ cần nắm vững pháp lắng nghe là đủ rồi. Hơn nữa lỗ tai có tới 1,200 công đức, trội hơn rất nhiều công đức của mắt chỉ có 800 mà thôi. Chúng ta nên nhớ rằng cứu cánh tu tập là hòa nhập Phật tánh, Chơn Như tâm, pháp giới tánh. Tuy được gọi dưới nhiều tên khác nhau, nhưng tất cả những danh từ ấy đều có cùng một nghĩa. Hòa nhập Phật tính tức là hòa nhập trọn vẹn 4 đặc tánh: Thường hằng, Năng Sanh, Chiếu Soi và Thanh tịnh hay tỏ thấu được 3 mặt: Thể, Tướng, Dụng của Phật tánh.
Nếu hòa nhập đầy đủ 4 đặc tánh thì gọi là đắc qủa Vô thượng Bồ Đề, Hòa nhập chưa đủ thì gọi là từng phần giác. Đó là trường hợp của các bậc A La hán, của các vị Tam Hiền chỉ đạt được một đặc tánh Thanh tịnh trong 4 đặc tánh nói trên, nên chưa phát huy được hết Tướng và Dụng của Phật tánh.
Chúng ta cũng nên nhớ rằng xưa nay tất cả động tác như suy nghĩ, tính, toán, lý luận, phê phán, phân biệt v.v… của chúng ta đều do tâm chủ động cả. Mà cái tâm ấy vốn vô tướng, không thể lấy phàm nhân mà thấy được, lấy ý thức mà biết được. Tâm vốn vô tướng nên không biến đổi, không chết sống, không thọ dụng.
Thí dụ như ý khởi niệm ăn, nhưng ý không ăn, chỉ có sắc thân này ăn. Tâm khởi phát ý nghĩ có lấy, có bỏ nhưng thật ra tâm chẳng có lấy chẳng có bỏ gì cả. Sở dĩ tâm phân biệt có lấy, có bỏ là vì tâm lầm chấp, là vì tâm còn mê vọng. Tâm mê vọng được gọi là vọng tâm, tâm không lầm chấp là chơn tâm.
Như vậy, chơn hay vọng cũng chỉ là tên gọi cái vô tướng đó mà thôi, giống như ta gọi người uống rượu say là người say rượu, khi người đó hết say thì gọi là người tỉnh rượu. Say hay tỉnh rượu cũng chỉ là cách gọi một người mà thôi.
Đề cập đến vấn đề thọ tụng, chúng ta thấy rằng tâm vô tướng không cảm thọ bất cứ điều gì. Vì tâm lầm chấp nên cho rằng cảnh hát xướng là cảnh vui, cảnh tù tội là cảnh khổ, nhưng trên thực tế, tâm không bao giờ cảm thọ.
Đối với các pháp ngoài sắc thân như núi sông, rừng rậm, đồng cỏ, tinh tú, mặt trời, mặt trăng, tất cả đều biến hiện, sanh diệt liên tục, nhưng cái vô tướng chỉ đạo không bao giờ sanh diệt, giống như tâm sai khiến xác thân làm đủ thứ việc nhưng bổn tâm vẫn hằng hữu.
Vậy thì cái vô tướng chỉ đạo sơn hải đại địa và cái vô tướng chi đạo xác thân này đều đồng một tánh năng sanh. Như thế trong cái tướng hư vọng luôn có cái vô tướng. Tốm lại, không phải chỉ có con người hay súc vật mới có cái vô tướng mà nơi âm thanh, sắc tướng, sơn hà, đại địa cũng có cái vô tướng. Trong kinh, Phật dạy ông Tu Bồ Đề muốn hàng phục vọng tâm để hiển bày chơn tâm, thì phải vô trụ, không chấp, nghĩa là muốn lấy nước thì phải múc ngay nơi sống, muốn thấy chơn thì phải tìm nơi vọng, muốn thấy đạo thì phải chung sống với đời.
Nay muốn tìm chơn mà có thể lìa bỏ các pháp tức là làm bặt cái nghe, cái thấy hay sao ?
Muốn thấu triệt pháp tu nhĩ căn viên thông, chúng ta nên phân biệt 3 trường hợp như sau ?
a) Nghe và không nghe.
b) Nghe mà không nghe.
c) Nghe như không nghe mà lại nghe như thật.

Trường hợp 1. NGHE VÀ KHÔNG NGHE.

Đó là trường hợp chung cho kẻ phàm phu chúng ta, có khi nghe, có khi không nghe.
Không nghe là khi chúng ta điếc hay lảng tai hoặc bị ngăn cách. Dù có nghe hay không nghe, chúng ta cũng đều phát khởi ý niệm phân biệt yêu ghét, lấy bỏ. Tâm chạy theo ngoại cảnh được gọi là tâm nhiễm ô, tâm chấp tướng. Mà hễ còn chấp tướng thì làm sao thấy được tánh ? Vì thế phàm phu chúng ta phải bị lưu chuyển trong vòng sanh tử luân hồi, phải thọ lãnh nghiệp báo vui sướng, khổ không khổ.

Trường hợp 2. NGHE MÀ KHÔNG NGHE.

Hàng Nhị Thừa vì chủ trương ngăn ngừa nhĩ căn không có cho tiếp xúc với âm thanh bên ngoài nên không thể phân biệt được tướng của âm thanh, êm dịu hay chua chát, thanh hay thô. Do không phân biệt nên họ không khởi tâm yêu ghét, lấy bỏ, tất nhiên không bị nhiễm ô, nên họ không tạo nghiệp ác để lãnh quả báo sanh tử.
Trường hợp này liên hệ trực tiếp đến đạo qủa của Nhị Thừa.
1) Nghe là trường hợp của Thanh Văn, nhờ nghe được pháp Tứ Đế mà đạt được quả giải thoát gọi là tiểu quả Niết Bàn.
2) Không nghe là trường hợp của A La Hán.
A La Hán chủ trương không nghe tất cả mọi thứ âm thanh nên chẳng những ngăn nhĩ căn không để bị tác động mà còn tìm cách an trụ trong cái không, tịch diệt của Diệt tận định. Dù đạt được quả vô sanh, nhưng A La Hán vẫn còn chấp pháp vì còn phân biệt có pháp thanh thô, yêu ghét, lấy bỏ, như họ nghĩ rằng tất cả các thứ âm thanh đều là ô trược cần phải loại bỏ.
Tu theo pháp nghe mà không nghe vẫn còn bị kẹt, vì khi chúng ta không tiếp xúc với các pháp thế gian, chúng ta không thể nào tỏ ngộ được tánh của chúng.

Trường hợp 3. NGHE NHƯ KHÔNG NGHE MÀ LẠI NGHE NHƯ THẬT.

Do nguyên tắc tướng của âm thanh tuy có thanh thô khác nhau, nhưng tánh của nó là chơn không, bình đẳng, không thanh, không thô. Nói cách khác, lìa sóng không thấy nước, lìa tướng không thấy tánh, lìa thế gian không Phật, lìa vọng niệm hay chúng sanh tánh, không thấy Phật tánh hay Phật tâm.
Vì thế muốn lắng nghe một cách tự tại và viên thông, chúng ta không nên phân biệt tướng thanh thô của âm thanh, không nên phân biệt cái gì cần nghe, thích nghe, và cái gì không cần nghe, không thích nghe. Nếu nghe được thì chúng ta cứ nghe mà như không nghe, nghĩa là cứ nghe mà lòng không chấp, không trụ, không sanh tâm ưa ghét, nhờ vậy mà chúng ta rốt cuộc được nghe như thật.
PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH
Nói không chấp, không trụ thì dễ nhưng khi thực hành mới thấy khó khăn vô cùng. Nếu áp dụng khoa động lực học, chúng ta sẽ tìm ra được một phương cách tương đối dễ thực hiện.
Người tu Bát Nhã không chủ trương tận diệt mọi tư tưởng. Họ chỉ tìm cách dứt trừ mọi tư tưởng tham, sân, si, thất tình, luc dục (tâm chấp ngã, chấp pháp) khi đối cảnh, đối pháp hay những hình ảnh có sức quyến rũ được ghi trong ký ức.
Thất tình, lục dục, tham, sân, si là những tướng thô của các thứ tâm chấp ngã là ngã si, ngã mạn, ngã kiến, ngã ái. Thất tình gồm có: hỉ, nộ, ố, ái, dục, cụ còn lục dục thì có tài, danh, sắc, thực, thùy (ngủ nghĩ), tật đố (ganh ghét) hoặc 6 thứ ham muốn của 6 căn.
Vì không chủ trương tận diệt tư tưởng nên người tu chỉ muốn làm chủ tất cả tư tưởng, bất luận chơn hay vọng, đang diễn biến trong nội tâm nghĩa là chẵng những họ không để cho các thứ tâm chấp ngã lôi cuốn mà còn tùy nghi sử dụng chúng để làm lợi người, lợi mình.
Có đối pháp, tâm liền phát khởi. Tâm phát khởi là tâm bị động, tâm nghe bên trong là tâm tịnh. Tuy nói hai tâm nhưng cả hai đều cùng sử dụng một lực, đó là tâm lực nói chung, trung tính, không thiện, không ác.
Tâm lực đó có sẵn trong mỗi người chúng ta cũng như có sẵn trong vũ trụ, trùm khắp không gian và thời gian. Vì vậy tâm lực của chúng ta chính là LỰC của VŨ TRỤ còn gọi là lực năng sanh của Chơn Như tâm.
Khi đối pháp, nếu chúng ta sanh lòng tham thì liền đó có một lực thúc đẩy chúng ta phải hành động. Nếu chúng ta kịp thời lắng nghe nội tâm thì lực tham sẽ mất, khiến cho tư tưởng tham lần hồi mất theo.
Vậy thì với kỷ thuật làm tăng trưởng lực lắng nghe đến mức tối đa, chúng ta đã làm tan biến ma lực của thất tình, lục dục, bởi lẽ nếu mình đã tận dụng trước tâm lực ở nơi lòng thì còn tâm lực nào khác để cho thất tình, lục dục sử dụng ?
Thí dụ như đi xem vở tuồng cải lương Lan và Điệp, các bà mẹ và các cô thường hay rơi lệ khi nghe những lời ca oán than não nùng của Lan quyết tâm cắt đứt mối tình xưa giữa hai người. Do đâu mà các bà và các cô phải mgậm ngùi, bi lụy như thế ? Có phải là vì các bà, các cô chưa từng tu tập pháp lắng nghe nên đã vô tình để cho âm thanh lôi cuốn. Nếu đã thuần thục được pháp này rồi thì làm gì còn có vấn đề thương cảm số kiếp hồng nhan đa truân ?
Thực hành liên tục pháp lắng nghe, tức là tập cho tâm lắng nghe có một cái lực mạnh mẽ đủ sức hàng phục các vọng niệm chấp ngã, chấp pháp cũng như thất tình, lục dục.
Câu hỏi được đặt ra là tại sao có người hành pháp lắng nghe mà vẫn bị lôi cuốn bởi các ma lực của vọng niệm ?
Chúng ta nên hiểu tâm lực có tánh chất trung tính. Khi bắt đầu tu tập pháp lắng nghe, chúng ta đã lấy một phần của tâm lực chuyển sang cho tâm lắng nghe. Từ đó tâm lắng nghe mới có được một lực, nhưng lực này vẫn còn yếu, so với ma lực của tham, sân si vốn đã được un đúc từ vô lượng kiếp về trước.
Lúc bấy giờ tâm lực bị chia thành hai phân lực, một phân lực đi với tâm lắng nghe, một phân lực đi với tham, sân, si, thất tình, lục dục, phân lực này chính là ma lực nói trên.
Đừng ngần ngại trốn tránh các cơ hội đối pháp, bởi lẽ mỗi lần đối pháp, chúng ta có dịp huấn tập lực lắng nghe, huấn tập nhiều chừng nào thì lực này sẽ được mạnh chừng nấy. Dĩ nhiên ma lực của tham, sân, si sẽ yếu dần cho đến cuối cùng không còn có đủ khả năng để lôi cuốn chúng ta nữa. Do đó mới nói đời là một lò rèn vô giá để tôi luyện tâm phàm phu thành tâm Phật. Đi tìm đạo giác ngộ mà lìa đời là một sự sai lầm rất lớn.
Bí quyết dụng công nằm trong câu <<>>. Phản văn là xoay cái nghe vào trong, vào chơn tâm thanh tịnh. Văn tự tánh có nghĩa là lắng nghe chơn tâm, tức là giữ cho tâm mình yên lặng. Sau khi tâm được yên tịnh rồi thì dù có nghe trở lại âm thanh bên ngoài, mình vẫn được bình thản, không còn cảm thọ.
Đối với những vị mới tu tập, muốn thành tựu pháp lắng nghe nội tâm cũng thật là khó khăn. Vì thế chúng tôi xin đề nghị một phương pháp lắng nghe như sau: Mỗi buổi tối, khi trong nhà được yên tĩnh, chúng ta có thể nằm hoặc ngồi để tập lắng nghe nội tâm. Trong bốn uy nghi, ngồi là tư thế lợi nhứt, vì nó có thể giúp mình dễ dàng theo dõi tạp niệm có thể xẹt ra trong đầu mà không bị mệt mõi hay buồn ngủ. Nếu tạp niệm, vọng niệm xẹt ra thì phải cố gắng tỉnh táo giác cho kịp. Giác niệm đúng lúc thì niệm liền mất. Nên nhớ rằng nhờ có lắng nghe nội tâm, chúng ta mới có thể kịp thời giác niệm. KHÔNG LẮNG NGHE, CHÚNG TA KHÔNG BAO GIỜ GIÁC ĐƯỢC NIỆM.
Đừng sợ niệm xẹt ra, chỉ sợ chúng ta lơ là mà giác không kịp. Vọng niệm, tạp niệm càng xẹt ra nhiêu chừng nào thì chúng sẽ được chuyển hóa càng sớm chừng nấy.
Đối với bất cứ loại âm thanh nào, dù là một bản nhạc tango êm dịu, hay một bản nhạc rốc kích động, chúng ta phải tập lắng nghe, tự tại, vô sở thọ, không duyên theo chúng, nghĩa là không tỏ ra vui buồn, khen chê, thích không thích không thích.
Pháp môn NGHE NHƯ KHÔNG NGHE MÀ LẠI NGHE NHƯ THẬT thuộc Phật thừa, vốn chủ trương nghe rốt ráo, đầy đủ cả âm thanh, không phân biệt chơn vọng, thanh thô.
Người đời khi đau khổ thường than thở đủ điều. Chư Phật và Bồ Tát đều nghe hết nhưng như không nghe, vì các Ngài không khởi tâm đau khổ, cảm xúc theo, mà lại nghe như thật, vì các Ngài thấu rõ nhân duyên, nhân quả, hoàn cảnh, ảnh hưởng hay hậu quả của âm thanh, từ đó các Ngài mới tùy thuận sử dụng các phương tiện khéo léo nhằm cứu độ các chúng sanh đau khổ.
Khi nhĩ căn đã viên thông rồi, được mở gút rồi thì 5 căn còn lại sẽ được viên thông theo. Tánh biết lúc đó không còn bị các căn chi phối nữa, mà chỉ thời nhờ chúng để hiện bày. Tánh biết là chủ, các căn là tớ. Các căn sẽ dung thông nhau, 1 căn là 6 căn, 6 căn là 1 căn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét