2/9/08

Thiên Bảo phiêu lưu với thể thơ haiku


Hoàng Long

Thơ haiku (hài cú) dĩ nhiên là của Nhật Bản, mang âm hưởng riêng của nền văn hóa xứ Phù Tang. Thể thơ này cực ngắn cô đọng, chỉ gồm mười bảy âm tiết, trong nguyên tác được viết thành một dòng duy nhất. Khi phiên âm ra tiếng nước ngoài mới ngắt làm ba dòng theo thứ tự âm là 5-7-5 . Bắt nguồn từ cảm hứng Phật giáo, đặc biệt là Thiền Tông, thơ haiku diễn giải sự vật bằng cặp mắt trẻ thơ, bằng tâm hồn tiêu sái. Và Matsuo Basho (Tùng Vĩ Ba Tiêu) (1644-1694) được xem là sự kết tinh đặc sắc nhất của tâm hồn Nhật Bản qua thơ haiku. Từ Kobayashi Issa, Yosha Buson (1716-1783)… cho đến những thi sĩ hiện đại ngày nay như Nobuko Katsura (sinh năm 1914), Toshi Akao (1925-1981), thơ haiku và cuộc khám phá bản ngã trong cõi Ta bà vẫn là nguồn cảm hứng bất tận. Cuộc hành hương thân phận này lan sang các nền văn hoá khác như Anh, Mỹ, Pháp, Trung Quốc, Việt Nam.. như những dấu chim thiên di.

Người đầu tiên đưa âm hưởng haiku vào Việt Nam có hệ thống là nhà nghiên cứu Phan Nhật Chiêu. Qua các tác phẩm “Thi ca Nhật Bản”, “Nhật Bản trong chiếc gương soi”…, thơ haiku cùng với những bản dịch đầy chất thơ đã đi vào tâm thức của những người cưu mang ngôn ngữ. Và suối nguồn này lan xa qua các thử nghiệm haiku bằng Việt ngữ của Trần Văn Hiến, Thiên Bảo…

Tập thơ “Mắt lá” (chưa xuất bản) của Trần Văn Hiến và “Chuồn chuồn nghiêng cánh” của Thiên Bảo là những nỗ lực kết nối Việt ngữ với một thể thức phiêu lưu mới của thi ca chưa bao giờ là bản sắc văn hóa dân tộc Việt. Những kiếm tìm này thật đáng trân trọng. Và cũng thật khó cho độc giả Việt Nam hãy còn xa lạ với những khái niệm của văn hoá Phù Tang. Thể thơ lục bát truyền thống vốn nặng tượng trưng ước lệ với những ngôn từ luyến láy đi vào chúng ta như son phấn điểm tô tâm trạng. Thơ haiku không thế. Nó là sự xả bỏ ngữ ngôn, tìm đến tiếng vang của vô thanh. Cho nên, trước hết khi làm thơ haiku bằng Việt Ngữ là phải gạt bỏ hết “ son phấn” của ngữ ngôn như từ láy, ẩn dụ, hoán dụ, so sánh…

Lấy một ví dụ về bài thơ nổi tiếng nhất của Matsuo Basho:

Furuikeya
Kawazu tobikomu
Mizu no oto.

Ao cũ
Con ếch nhảy vào
Thanh âm của nước.

Rất cô đúc nhưng nếu ta “có thể nghe ra tiếng đại dương từ một vỏ ốc” (Nhật Chiêu), thì bài haiku này cũng khơi mở ra cho chúng ta thấy nhiều điều tuyệt diệu. Chiếc ao cũ là đời sống. Đời sống muôn đời là cũ. Đâu còn gì mới mẻ dưới ánh sáng mặt trời. Con người được sinh ra chết đi và suy tư những điều muôn thuở của thân phận người về tình yêu, sự sống nỗi đau và cái chết. Sự xuất hiện con người trên cõi nhân gian chỉ là con ếch nhảy vào ao cũ. Nhưng điều gì làm ta khác biệt với tha nhân? Chính là tiếng vang của ta khi ta nhảy vào cuộc sống. Con người lưu dấu và tạo tiếng vang cho mình qua nhiều hình thức như âm nhạc, văn chương, hội họa, triết học… và bởi vì sự lưu dấu này mà con người tái ban phát cho mình một ý nghĩa sống, siêu vượt trên những hệ lụy bình thường nhân gian và làm mình khác đi với những con người khác…

Với mười bảy âm tiết, bài thơ haiku trên đã nói được nhiều điều như thế đấy…

Lẽ dĩ nhiên tác phẩm văn chương khác biệt với triết học là ở chỗ văn chương diễn đạt tư tưởng bằng hình ảnh, còn triết học diễn đạt tư tưởng bằng ngôn ngữ thuần túy. Dù bằng hình thức nào đi nữa thì con người cũng chỉ tìm những cách diễn đạt khác của những nghi vấn thiên thu về tình yêu, cô đơn, nỗi đau và cái chết. Nhà triết học Italy Agostino Steuco (1496-1549) rồi sau đó là G. Wilhelm Leibniz (1646-1716) đã đưa ra và quảng diễn khái niệm “triết học muôn thuở” là vì lẽ ấy. Cùng một nỗi niềm tâm cảm nhưng Ba Tư diễn đạt bằng thơ rubai, Hàn Quốc diễn bằng thể thơ sijo, Việt Nam thì thơ lục bát… Nhưng trong thơ haiku, hình ảnh và ngôn ngữ diễn đạt được rút gọn đến mức tối đa, đưa thẳng ta vào cái “đệ nhất sát na” khi ta nhìn ngắm, chiêm ngưỡng và hội ngộ với sự vật, không màu mè son phấn. Điều này sẽ gây cho người đọc một cảm giác choáng váng nếu như thấu hiểu được phút giây mà tác giả bừng ngộ, hay chỉ là một sự hụt hẫng vì không hiểu điều tác giả muốn nói gì. Văn hóa Nhật Bản thấm đẫm tinh thần Phật giáo. Những thành tố văn hoá ngoại sinh dù tiếp thu từ Trung Hoa lục địa, nhưng khúc xạ qua lăng kính nền văn hóa quần đảo bản địa kết hợp với những thành tố nội sinh, khiến tất cả đều lấp lánh một sắc màu khác. Muốn hiểu được thơ haiku, phải hiểu được “trường văn hóa Nhật Bản”. Đó chính là cách suy nghĩ và diễn đạt của một dân tộc theo “cảm hứng” Phật giáo. Hai đại biểu xuất sắc nhất của thơ haiku Nhật Bản là Matsuo Basho và Kobayashi Issa (Tiểu Lâm Nhất Trà) (1763-1827). Một người là thiền sư, còn một người là tín đồ của Tịnh độ tông. Một người đại diện cho nhánh Phật giáo tự lực, một người đại diện cho nhánh Phật giáo tha lực. Làm sao hiểu được khi chúng ta không thuộc về nền văn hóa trên. Vì thế hiểu được thơ haiku, đối với người Việt Nam đã là một thách thức.

Huống chi lại làm thơ haiku bằng Việt ngữ?

Trước đây đã có một Ngô Văn Tao làm thơ haiku bằng Hán tự với những bản dịch tài hoa của chính ông và một số bạn bè thân hữu, trong đó có Bùi Giáng và Trịnh Công Sơn. Đó đã là một thách thức.

Nay một Trần Văn Hiến, một Thiên Bảo… thử sức thơ haiku bằng chính Việt ngữ. Cũng như bao người thử sức thư pháp bằng Việt ngữ. Điều này cũng là một thách thức chăng?

Nói như vậy để thấy là việc sáng tác thơ haiku ở Việt nam đang dò dẫm những bước đầu tiên. Và tất cả mới đang chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm. Và chúng ta không bàn luận hay phán xét gì. Thời gian sẽ trả cho ta những gì thuộc về ta. Chúng ta chỉ nên vui mừng đón chào những cuộc phiêu lưu mới vào một thể thơ chưa bao giờ là bản sắc văn học Việt của những con người còn rất trẻ. Và hy vọng Trần Văn Hiến và Thiên Bảo sẽ dấn thân hết cuộc phiêu lưu của mình với những ngọt ngào của hoa trái đầy tay.

Cuối cùng xin được phép trích mấy bài thơ haiku của Thiên Bảo. Và bởi vì như chúng tôi đã nói trên, đây mới chỉ là bước khởi đầu, ngay cả trong việc tiếp nhận của người đọc. Vì thế chúng tôi xin được phép không được bình luận gì. Những bài thơ này chúng tôi trích từ trong tập “Chuồn chuồn chao nghiêng cánh”, thơ haiku Thiên Bảo, NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2004.

Có tiếng nói cười
Trên chiếc ghế trống
Ngày xưa em ngồi

Chiếc lược gãy đôi rồi
“ Never forget…”
còn vọng trong xa xôi

hang Bêlem
vọng lên tiếng cười
bên phố một người điên

mừng tôi trở về
trong căn phòng cũ
bầy muỗi no nê

trên bàn tôi
một đóa hoa bất tử
còn mùa thu đâu rồi?

Và khi ta trở lại
Ngày xưa đâu rồi
Chiếc cầu lẻ loi ơi

Thôi đừng gặm nữa
Chú chuột kia ơi
Tôi đang mơ thấy người

Có con chim lẻ bạn
Hót vang trong vườn
Đành ngưng bước chân

Vẳng trong canh sáng
Tiếng chuông nguyện cầu
Làm mộng tôi tan mau

Dưới bệ thờ Giê su
Còn ai đang ngủ
Ôm vầng trăng thu

Đàn kiến nhỏ
Nối sợi dây vô thường
Qua bao mùa yêu thương

Thắp cùng tôi đêm dài
Chiếc lồng đèn thơ bé
Đâu rồi đêm nay

Như nhánh sông dài
Đưa thuyền em trôi mãi
Đôi vòng tay ai

Cung đàn cũ
Đêm vắng
Hòa tiếng dế vang

Mùa thu đã hẹn
Cùng ta quay về
Trên cánh đồng quê

Hoa không tên
Làm nên vương miện
Bé thơ không nhà

Đi về đâu
Hỡi con kiến nhỏ
Đội sương lên đầu

Tiễn bạn về quê cũ
Trên lối đi nào
Nhánh cúc gầy hao

Theo kịp tôi không
Ơ kìa chiếc bóng
Giữa mùa xuân trong

Và khi ta trở lại
Ngày xưa đâu rồi
Chiếc cầu lẻ loi ơi

Thiên Bảo

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét