- Kiêm Đạt
Zengai không phải là những tác phẩm được sáng tác "vì tình yêu nghệ thuật" một cách thuần lý và cảm xúc bình thường của người nghệ sĩ hay theo "đơn đặt hàng" của những nhà quý tộc Nhật thích chuyện thời thượng. Trong thực chất, Zengai cũng một trong những phương thức tu tập, giáo huấn, hành trì, vì trong Zen, bất cứ hành động nào cũng hướng về tu tập. Trong hội họa chẳng hạn, những chủ đề được nêu lên là các thiền sư và những mẫu mực lớn trong quá khứ; phổ biến hơn cả là tái tạo những thi phẩm của trường phái Zen.
Trong thư pháp cũng thế. Khác biệt với hầu hết các hình thái khác trong nghệ thuật tôn giáo, ở đây, nét bút thể hiện sự táo bạo đầy ấn tượng và sự mãnh liệt biểu kiến, tạo cảm ứng bất ngờ và trực tiếp. Cảm ứng mang tính "dĩ tâm truyền tâm". Một nghệ sĩ Zengai khi chuyển từ ý niệm của mình lên trên giấy vẽ thường diễn ra một cách tự nhiên, thanh thản, thoáng đạt, không chút gò bó. Tuy nhiên, trong đó, chứa bao nhiêu nội dung hành súc.
Thực chất của kinh nghiệm Zen được tinh cất trong những động tác của nét bút; sức mạnh của nhập định, chỉ hiển hiện trong vài ba nét. Tánh chất "phản lo-gich" tiềm ẩn trong những điều khó khăn nghệ thuật của Zen (Koan chẳng hạn) sẽ trở thành hữu hình, thấy được trong chuyển động như vũ điệu của thư pháp bằng những nét đại tự.
Trước tiên phải thấu hiểu nội dung trong nghệ thuật Zen. Trường phái Zen khác với phần lớn các hệ phái Phật Giáo truyền thống. Ở thời kỳ Phật Giáo được truyền bá khắp Á Ðông, tôn giáo nầy vốn được xây dựng trên nền tảng những nghi lễ cúng bái, sùng mộ đức Phật, Bồ Tát, có thể giúp những Phật tử thuần thành đi đến đốn ngộ hay tái sinh, theo cách hiểu của Mật Tông. Nhưng Zen thì khác. Zen không phải chỉ là sự áp dụng đơn thuần các nguyên lý của Phật Giáo nguyên thủy. Giáo huấn của trường phái Zen cho rằng: Những ham muốn và những tư duy duy lý chỉ là hảo huyền và làm lu mờ Phật tính sẵn có trong mỗi người. Một cá nhân có nhiệm vụ làm tĩnh thức bản chất đích thị của mình.
Một tu sĩ trường phái Zen phải chấp nhận một sự rèn luyện lâu dài, ngày đêm và nghiêm khắc, bao gồm nhiều năm thiền định trước khi đạt tới sự đốn ngộ. Ðiều nầy có thể được gây ra một cách đột ngột bởi một tiếng chuông, một cú roi, một tiếng thét.
Nghệ thuật Zen cũng là một phần quan trọng trong sự thực hành giáo lý Zen. Ðã từ hơn một ngàn năm nay, các thiền sư Trung Hoa, Nhật Bản đã sử dụng hội họa, thư pháp như là một phương tiện để tự rèn luyện: một vòng tròn (enzo) được vẽ vu vơ, mang tính ám thị nhiều hơn là ngôn từ để giải thích về Thiền. Những bức hoa Thiền bằng mực Tàu sẽ hỗ trợ cho việc Thiền định.
Các tu sĩ chỉ họa hoằn mới có được một dịp để rèn luyện về hội họa, tuy nhiên, những năm tháng dài rèn luyện thư pháp đã giúp họ có được tài hoa trong việc sử dụng cây bút và nét mực, diễn đạt một các phóng khoáng... Hầu hết các đại thiền sư trường phái Zen đều thực hành thư pháp. Vì mỗi chữ Hán điều được biểu thị bởi một kiểu tượng hình riêng biệt; kho tàng chữ viết nầy bao gồm trên 50,000 chữ khác nhau, mỗi chữ được viết theo năm kiểu. Sự phong phú bao la của những hình, những tượng, những đường nét, phong cách khác nhau nầy, cộng theo sự phối hợp nhịp nhàng của đường nét, tạo ra vô số tiềm năng nghệ thuật, nếu được rèn luyện hoàn chỉnh.
Ðộng tác cầm thỏi mực tàu, cho nước vào nghiêng, thư thái và kiên trì mài mực, tất cả những động tác nầy cũng đã giúp cho vị thiền sư có đủ thì giờ suy gẫm, trầm tư, trước khi hạ bút. Cây bút lông mềm mại được cầm trên các đầu ngón tay sẽ phản tác đối với từng cử động của ngon tay, cổ tay, khuỷu tay và vai. Tất cả cần lập luyện lâu dài. Thật khó thực hiện để sửa chữa, vì nét chữ lộ ngay trên giấy trắng. Chính nét vẽ được coi là biểu hiện trực tiếp của cá tính. Khả năng viết, khả năng vẽ, với sự trong sáng và mãnh liệt của tinh thần, trở thành công năng sáng tác của thiền sư.
Ðược du nhập vào đất Nhật từ thế kỷ thứ XIII, ngay từ đầu Zen được nhiệt liệt đón nhận. Trong thời điểm nầy, với sự nhạy cảm của giới trí thức và quý tộc đã tìm thấy trong nghệ thuật Zen những gì khoáng đạt, khác với kỷ luật nghiêm khắc của nghệ thuật giới Samourai. Nhưng đó là phản ứng ban đầu.
Hai trường phái Zen được du nhập: trường phái Soto (Tào Ðộng) và trường phái Rinzai (Lâm Tế). Giai đoạn đầu, trường phái Tào Ðộng có tầm quan trọng hơn ở đây, với nhiều chùa chiền được xây dựng nhiều nơi. Những tu sĩ Tào Ðộng chú trọng đến lợi ích của tọa Thiền, không gì khác hơn ngoài việc đó, cũng không phải chỉ nhằm mục đích đạt đến đốn ngộ.
Trường phái Lâm Tế ban đầu tập trung tại các thiền đường đô thị, chú trọng đến nhập định, nhằm chuẩn bị cho đốn ngộ bất ngờ. Trải qua nhiều thế kỷ, chính trường phái Lâm Tế đã cống hiến nhiều nhất cho các tu sĩ nghệ sĩ. Cũng khi đó Thiền Tào Ðộng cũng phát triển với nhiều thiền sư lỗi lạc.
Một trường phái thứ ba: Thiền Hoàng Bá (Obaku). Trường phái nầy du nhập Nhật vào những năm cuối thế kỷ XII. Trường phái nầy được truyền bá nhanh chóng, một phần là nhờ ở những giáo lý hỗn hợp tu nhận từ những giáo phái khác; mặt khác mang đến những truyền thống nghệ thuật Trung Hoa đời Minh.
Dưới triều đại Muromachi (1392 – 1568), trường phái Zen đã chuyển qua một bước ngoặt, khác với tình hình tôn giáo Trung Quốc. Một số tăng sĩ dựa vào các Shôgun (Tướng quân), chứng tỏ là nội lực cần có cho một xã hội được xây dựng trên nền tảng các chiến binh lý tưởng, kỷ luật, trung thành, tuân thủ. Qua đó, các nguyên lý Zen ảnh hưởng đến giáo dục và chính trị. Do đó, văn hoá Zen của Nhật chuyển sang hình thức chuyên nghiệp hoá và tiêu chuẩn hoá.
Phật Giáo Nhật cũng phải trải qua nhiều thử nghiệm. Phần trước, có nhắc đến việc hoà hợp tôn giáo (Phật, Thần đạo, Khổng). Nay vào cuối thời đại Muromachi, ba vị Tướng quân thay nhau cầm quyền, mà các hoạt động của họ dẫn tới sự tái thống nhất nước Nhật sau một thời hỗn độn, tranh bá đồ vương. Thời đại Momoyama (1568 – 1600) đã không làm gì để phát triển Phật Giáo. Vị tướng quân tiếp đó là Tokugawa Ieyasu (1542-1616) tuy là một Phật tử thuần thành, nhưng với ông, phải dựa trên giáo lý Khổng Giáo trong việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Ieyasu chuyển kinh đô từ Kyoto đến Edo (Tokyo ngày nay). Việc giáo dục con em các võ sĩ được giao phó cho những viên chức theo Khổng Giáo hơn là Phật Giáo. Các học giả Khổng Giáo trở thành chức sắc của chế độ Shogun. Thời đó, đạo Khổng Nhật tỏ ra hữu hiệu trong việc trị quốc, nhưng lại suy thoái trong hành trì tôn giáo.
Chính quyền của chế độ Tướng quân lo sợ những ảnh hưởng ngoại nhập của Cơ Ðốc Giáo, cho nên phải mượn ảnh hưởng của Khổng Giáo và cả Phật Giáo để chế ngự. Phải chăng đây là một lầm lẫn với các nhà tu hành? Những thay đổi mang tính chính trị đã giáng một đòn nặng nề đến Thiền tông. Xa dần những hoạt động mang ý nghĩa chính trị, các thiền sư quay trở về con đường tu tập. Thay vì bắt bược phải vẽ những bức tranh để trang trí tư thất cho các Shogun, họ cố tránh né, lui trở về thiền đường.
Một khi các nghệ sĩ Zen đã cất được gánh nặng phải cung phụng triều đình, trở về con đường chính yếu, thì một truyền thống mới ra đời: truyền thống Zenga. Và kể từ đó, Zen đích thực chọn con đường lý tưởng. Bài học nầy không chỉ dành cho Nhật.
- Quan điểm nghệ thuật của Zenga
Giống như phần lớn các hình thái nghệ thuật châu Á, Zenga là một loại hình gợi lại quá khứ. Khi cầm cây cọ lên, các thiền sư lỗi lạc thời Edo đã thể hiện lại những truyền thống Zen từ xưa ở Trung Hoa và Nhật Bản. Các hình mẫu về sự ngộ đạt của các vị chân tu trở thành chủ đề ưa thích. Ðiều nầy giải thích những kiểu dáng biểu đạt đức Bồ Ðề Ðạt Ma chín năm diện bích. Nghệ thuật thời Edo của Phật Giáo mang tính giản dị, mạnh mẽ, bộc trực. Zenga là một phản ứng đối với những thay đổi xã hội diễn ra không ngừng của nước Nhật. Họ cố tránh né những chuyển động nhất thời: sự phát triển của đạo Khổng, những định chế ngày càng khắc nghiệt, đất nước bế quan toả cảng, hiện tượng gia tăng kinh tế thị trường, áp lực các thế lực Tây Phương.
Tách hẳn những biến động nầy, nghệ thuật Zen không những được tồn tại, mà lại còn nở rộ các thiền sư hướng nghệ thuật theo con đường chính của mình, tránh mọi ràng buộc thế nhân. Các thiền sư từ chối tham gia các nhóm, các hội, các hoạt động của chính quyền, chỉ dành những tác phẩm cho môn đồ tham bác, học hỏi.
Theo những thiền sư, hội họa và thư pháp có những tác động mạnh hơn là những bài pháp thoại. Thiền sư Hakun, một bậc thầy của thế kỷ XVIII, đã viết: "Nghệ thuật làm lộ những nét thoáng qua, nhưng lại phổ biến trong tâm hồn con người". Zengai mang ý nghĩa đó. Các thiền sư thời đại Edo đã ra sức sáng tạo những công trình Zenga để các môn đồ của mình xem đó là những hình thái biểu tượng trong việc tu hành.
Cũng trong thể thức nầy, cùng với sự phát triển của phương thức diễn đạt Zenga, có những chủ đề hội hoa khác xuất hiện. Một số đề tài về Thiền nhưng lại liên quan đến hình thức sinh hoạt của quần chúng. Các nghệ sĩ thiền sư còn ghi thêm một vài câu thơ ngắn, đồng thời triết lý Zanga lại kết hợp với tinh thần hài hước và tánh tự nhiên. Trong giai đoạn nầy, thư pháp được xem là phương tiện sáng tạo đầy đủ ý nghĩa nhất. Như thế hội họa và thư pháp đã giúp cho tăng nhân thấm nhuần tư tưởng nội tại của Zen, suy gẫm chủ đích của đề tài, ra sức suy gẫm như thực hành một Công án (Koan).
Hầu như ai đến Nhật Bản không thể không ngạc nhiên vì một quốc gia có nền công nghiệp nhất nhì trên thế giới, thường xuyên quốc tế hoá để mở rộng mọi giao lưu với bên ngoài, tuy nhiên, bên trong vẫn giữ được nền văn hóa lâu đời, đặc sắc, khó tìm thấy ở nước châu Á khác. Chẳng hạn ở Nhật, nhạc Jazz, Rap, Rock and Roll hay những dàn nhạc giao hưởng cổ điển Tây Phương tầm cỡ phát triển khá cao, trong khi đó, nền âm nhạc dân tộc vẫn tồn tại song song, không hề bị lấn át, đủ sức thu hút những người vốn yêu thích.
Trong những nghệ nhân hoạt động bảo tồn tuồng cổ Kabuki hay tuồng "Nô", một loại hình ca múa cung đình ở Nhật cũng đã có người được phong là "hạt ngọc sống của quốc gia" (Nigen Kokuhô) được xã hội tôn kính không kém một nhà bác học. Lãnh vực ẩm thực cũng vậy; bên cạnh những nhà hàng sang trọng, cũng có những cửa hàng ăn cổ kính không kém phần sang trọng, trang nhã kiểu Nhật bản với những khe suối róc rách, bình rượu Sake ấm cúng và thức ăn bày một lối bày biện thật hài hoà giữa màu sắc và hình dáng, giữa thiên nhiên và kiểu cách khó tìm thấy.
Một bình hoa trang trí theo lối Hoa Đạo, lối uống trà từ tốn để tịnh tâm của Trà Đạo và những nét chữ Hán bằng Thư Đạo, đã làm cho du khách ngẫn ngơ, thích thú, cảm thấy buổi ăn là một tận hưởng đầy đủ tính văn hoá và nghệ thuật. Nền văn hóa dân tộc làm cho họ tự hào, hãnh diện, không hề mặc cảm tự ti, cho thấy giá trị truyền thống dân tộc cao độ.
Khi bước vào một căn nhà của người Nhật khá giả, bạn sẽ gặp ngay vườn cây kiểng với hồ sơn thủy, hòn non bộ, những cây anh đào hay Bonsai xinh xắn. Vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được mời cỡi giày để bước lên chiếu "tatami" đưa vào phòng khách với những cánh cửa ô vuông nho nhỏ, xinh xinh bằng gỗ dán giấy bồi trắng tinh (washi). Nhà càng sang trọng bao nhiêu thì cách trang hoàng càng thanh lịch bấy nhiêu: một bát sứ cổ để góc, tấm liễn viết một chữ Hán theo Thư Pháp trên tường, một chiếc bàn đơn sơ nhưng bằng gỗ quý, hai ba cái gối để khách và chủ cùng ngồi xuống chiếu uống trà, đàm luận thư thả, khác với cảnh tất bật, vội vã bên ngoài.
Nhật Bản là một đất nước hải đảo, có nền văn minh cổ xưa và họ cũng thường tự nào về truyền thống nầy. Khi mới du nhập nền văn minh Trung Hoa, người Nhật đã mô phỏng theo hai tông phái của các bậc thầy: Nam Tông và Bắc Tông. Tông phái miền Bắc là hiện thực, trung thành với thế giới hữu hình và màu sắc; trong khi đó, ngược lại tông phái miền Nam lại là lý tưởng, là ấn tượng, trong văn học và nghệ thuật cũng vậy; tông phái nầy tìm cách diễn tả tư tưởng hơn là hình thức, tính chất sâu sắc bên trong hơn là ngoại diện phù phiếm bên ngoài. Bắc tông dùng những màu sắc rực rỡ để diễn đạt thiên nhiên; trong khi đó thì Nam Tông thiên về đơn giản hơn chỉ dùng mực xạ hòa với nước; tông phái nầy chỉ tìm vẻ đẹp lý tưởng về tinh thần. Nhìn chung, tông phái miền Nam tự nhiên gần gũi với tinh thần chính thống của người Nhật hơn.
- Nghệ thuật: Người Nhật thường nói đến các nghệ sĩ tiêu biểu đương thời, mà điển hình là ba anh em dòng họ Nakao: Noami, Geami và Soami. Trong diễn tả, họ thường để cho ngọn bút lông của mình tự do đưa đẩy theo những năng lực huyền bí trong tâm tưởng của mình. Họ khinh miệt hình thức, nhưng đồng thời cũng không lưu tâm với các màu sắc lẫn lộn khác. Do những đặc tính của thiên tài, họ đã lập ra một môn phái về hoa. Hoa trở thành một chất liệu cần thiết cho nghệ thuật. Sắc điệu của hoa thay đổi vô cùng.
Phật Giáo Nhật Bản thường cho rằng: chính đức Phật A Di Đà đã định ra chuyện đó. Nhưng hình của hoa thì có hạn, và điều nầy là một thuận lợi vì chính sự hữu hạn của hình thức đã xác định được ngôn ngữ của loài hoa. Và cũng kể từ đó, nghệ thuật Nhật Bản đã tìm cách để diễn tả đặc thù và tự phát triển bằng những phương tiện riêng của mình. Trong hội họa Nhật, người ta ngạc nhiên khi thấy nghệ thuật phối cảnh lạ lùng ở những họa phẩm thời xưa của người Nhật. Trong những tác phẩm đó, những đường nét phía trước thì ngắn; trái lại những đường nét phía sau thì lại dài hơn.
Chẳng hạn như khi thể hiện một khối vuông, thì mặt phía sau sẽ được vẽ lớn, còn mặt phía trước vẽ nhỏ hơn. Tại sao thế. Tại vì người Nhật luôn luôn quan tâm đến sự sâu sắc, vô hình. Trong khi người phương Tây chỉ quan tâm đến điều gì trông được, sờ được, người Nhật Bản chú trọng đến những gì họ không thể với tới được.
Một triết gia người Nhật, ông Syakaku trong quyển "Thẩm Mỹ Học Nhật Bản" đã cho rằng: "Nghệ thuật chính là sự rung cảm, sự phập phồng nhịp nhàng theo vận tiết của vũ trụ". Ông viết: "Nếu một triết gia La Mã thường khởi đầu bằng hình học, triết gia Hy Lạp thông thạo số học, thì những bậc hiền triết Đông Phương (trong đó kể cả Nhật Bản) thì lại am tường đến các quy luật của "hình số tinh thần". Đó là môn "hình học không gian bốn chiều" được tính bằng "dịch số", dựa vào nguyên lý "tân nguyên". Nguyên lý không gian bốn chiều nầy là chìa khóa mở mọi cánh cửa của khoa học và nghệ thuật.
Về phương diện thi ca của Nhật cũng thế! Những bài thơ hay nhất ở phương Tây đều do các kết cấu chữ, người ta tìm cách trau chuốt chữ nghĩa; người Nhật khi thưởng thức thi ca nầy cảm thấy như thiếu một cái gì, cố tìm một thứ sinh chất cần cho sự sống. Đối lại, thi ca Nhật Bản không khi nào được hiểu thấu đáo ở ngoài quê hương người Nhật.
Việc phiên dịch ra tiếng nước ngoài đã gây ra tai hại cho một bài thơ Nhật. Nhưng nếu đã dịch, mà còn lặp lại hoàn toàn, thay vì phô mặt tinh thần, lại chỉ bày sự có mặt của vật chất, thì tai hại biết bao! Trong khi thi ca Tây Phương nhằm mục đích cho thấy cõi đời không đến nỗi nhỏ mọn, xấu xa như người ta tưởng, thì thi ca Nhật Bản triệt để mong muốn giải thoát chúng ta ra khỏi thế gian trần tục.
Chỉ vỏn vẹn có mấy chữ như trong thơ Haiku (17 âm tiết hay 31 âm tiết), một bài thơ Nhật muốn nhắc ta nhớ lại nhịp rung động của vũ trụ vô hình mà chúng ta thường quên; thi ca Nhật cũng gợi cho tâm hồn nỗi niềm tưởng nhớ một quê hương vô hình. Như thế, khi thưởng thức, không thể nào tách riêng những câu hay trong một bài thơ Nhật, vì vẻ đẹp của câu thơ riêng biệt sẽ là vẻ đẹp vật chất, vẻ đẹp trần tục, vẻ đẹp tầm thường.
Cả đến những người từng dịch thơ văn Nhật Bản ra tiếng nước ngoài cũng không biết rằng chưa có ai trong họ thành công bao giờ khi chuyển ngữ cả! Chẳng hạn như khi họ dịch chữ "Mizu" là "nước", chữ "Toku" là "đức hạnh", mà chẳng nói thêm được điều gì. Đối với các nhà thơ Tây Phương, "nước" là chất đẹp lóng lánh muôn màu, gợn sóng... nhưng đối với người Nhật, nước là gương mẫu cho mọi đức hạnh của con người. Nước rất khiêm tốn, khi nào cũng ở dưới thấp. Với người Nhật, nước tiêu biểu cho sự vâng lời, an phận, nước theo hình dáng của vật chứa nó.
Nhưng kỳ thật, nước lại là nguồn sinh lực cho mọi thứ: cầm thú, cỏ cây sống nhờ nước. Nước cũng có khả năng xoi mòn những thứ cứng như sắt đá, lửa nước cũng không sợ. Đại loại là thế!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét