2/9/08

BÓI KIỀU

PHÁP MÔN TU TẬP LÀNG MAI

Bói Kiều (pháp môn) Một pháp môn thực tập và nuôi dưỡng trong ba ngày Tết, sử dụng Phật học, thi ca và tâm lý trị liệu để quán chiếu hiện tại và tương lai. Pháp môn này chắc chắn sẽ thành công lớn như pháp môn Bông Hồng Cài Áo.

Nguyên tắc thực tập bói Kiều: Bói Kiều là tham khảo ý kiến cụ Nguyễn Du, ni sư Giác Duyên và đạo cô Tam Hợp về tình trạng hiện tại của mình và để biết cách tu tập và tiếp xử như thế nào cho có hạnh phúc và thành công trong năm tới. Tại làng Mai, ai bói Kiều cũng tấm tắc khen là linh nghiệm.

Nghệ thuật đoán quẻ Kiều: Muốn tham vấn, phải tới trước bàn thờ Phật và bàn thờ Tổ để lạy ba lạy thật cung kính, rồi ngồi xuống, đặt tay vào thành chuông, thở vào và thở ra ba lần rất chánh niệm rồi đưa tay vào chuông bốc lên một quẻ. Cụ Nguyễn Du cũng như ni sư Giác Duyên đều là tổ tiên tâm linh và nghệ thuật của tất cả chúng ta. Quẻ bốc được sẽ được trao cho vị có nhiệm vụ đoán quẻ. Vị này là một người có kiến thức về văn chương, truyện Kiều, có khả năng nhận xét tâm lý, và nhất là có kiến thức về Phật pháp và kinh nghiệm tu tập. Trong lúc quẻ được một người ngâm lên, mọi người có mặt đều thực tập theo dõi hơi thở (nếu có tiếng đàn phụ họa giọng ngâm thì càng hay). Thời gian này là để vị đoán quẻ chiêm nghiệm.

Phương pháp đoán quẻ Kiều: Ở Làng Mai, quý thầy, quý sư cô và quý vị cư sĩ thường đoán quẻ Kiều theo phương pháp sau đây:

1. Trong hai câu lục bát, có thể một câu là nhân và một câu là quả. Quả có thể là đã phát sinh trong hiện tại hay là điều mong ước trong tương lai. Nhân là lời khuyên của cụ Nguyễn Du về cách hành xử và tu tập để chuyển hóa hay thực hiện.

2. Nghĩa lý trong quẻ không cần đi theo nghĩa lý truyện Kiều. (Ví dụ: Câu “Lòng còn gửi áng mây vàng” không hẳn phải giải là đương sự còn tưởng nhớ quê hương mà có thể giải là lý tưởng tu học vẫn còn vững mạnh, bồ đề tâm vẫn còn nguyên vẹn, vì mây vàng ở đây có thể được xem là lý tưởng cao siêu của đạo Bụt, của ánh đạo vàng. Câu “Song thu đã khép cánh ngoài” không chỉ có nghĩa là đóng cửa sổ lại mà còn có nghĩa là đừng để tâm tới những chuyện thế gian, nên tập trung tâm ý vào việc tu học. Cũng như câu “Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân” thì theo tinh thần của Quy Sơn Cảnh Sách là phải nương tựa vào các vị thiện tri thức lớn).

3. Hỏi xem đương sự đã xin tham vấn cụ Nguyễn Du về vấn đề gì để nương vào đó mà đoán quẻ.

4. Có thể tham khảo ý kiến của một vài vị thiện tri thức cùng có mặt để các vị có thể chia sẻ thêm tuệ giác của các vị về quẻ đang được đoán.

5. Quẻ đoán phải có tác dụng an ủi, khuyến khích và soi sáng cho người xin quẻ.

6. Trong giờ bói Kiều nên tập họp cả đại chúng. Mỗi người bói xong nên lạy tạ trước khi trở về chỗ ngồi. Mỗi lời đoán phải là một bài thuyết pháp ngắn cho tất cả đại chúng.
Lời khấn nguyện trước khi bốc quẻ Kiều: Người muốn tham vấn sẽ đọc thầm lời khấn nguyện này trong khi đặt tay lên thành chuông và theo dõi hơi thở. “Cầu thi thánh Nguyễn Du; cầu đạo cô Tam Hợp; cầu sư trưởng Giác Duyên; cầu giáng tiên Thúy Kiều. Tôi tên là... Xin tham vấn thi thánh, đạo cô, sư trưởng và giáng tiên về vấn đề... ” Gồm có hai trăm mười quẻ sau đây:

1. Thông minh vốn sẵn tính trời. Nhẹ nhàng nghiệp trước, đền bồi duyên sau.
2. Tan sương vừa rạng ngày mai. Trụ trì nghe tiếng vội mời vào trong.
3. Nâu sồng từ trở màu thiền. Mặn khen nét bút càng nhìn càng tươi.
4. Bây giờ rõ mặt đôi ta. Tu là cội phúc, tình là dây oan.
5. Song thu đã khép cánh ngoài. Hay là khổ tận đến ngày cam lai?
6. Bấy lâu mới được một ngày. Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
7. Cho hay giọt nước cành dương. Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi.
8. Tấm thân rày đã nhẹ nhàng. Thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi.
9. Thương sao cho vẹn thì thương. Lòng đây lòng đấy chưa tường hay sao?
10. Thương sao cho vẹn thì thương. Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
11. Phật tiền ngày bạc lân la. Tương tri dường ấy mới là tương tri.
12. Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân. Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
13. Đã nguyền hai chữ đồng tâm. Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời.
14. Đã nên có nghĩa có nhân. Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
15. Đề huề lưng túi gió trăng. Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời.
16. Gương trong chẳng chút bụi trần. Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong.
17. Nâu sồng từ trở màu thiền. Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
18. Thương nhau xin nhớ lời nhau. Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?
19. Song hồ nửa khép cánh mây. Hoa chào ngõ hạnh, hương bay dặm phần.
20. Dịp đâu may mắn lạ thường. Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.
21. Tan sương vừa rạng ngày mai. Hoa chào ngõ hạnh, hương bay dặm phần.
22. Bốn bề bát ngát xa trông. Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường.
23. Một người dễ có mấy thân. Ở đây hoặc có giai âm chăng là.
24. Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân. Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen.
25. Cùng nhau nương cửa Bồ Đề. Vườn xuân một thửa, để bia muôn đời.
26. Ngày xuân em hãy còn dài. Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
27. Trùng sinh ân nặng bể trời. Ngày phô thủ tự, đêm nhồi tâm hương.
28. Thiền trà cạn nước hồng mai. Nhờ tay tế độ, vớt người trầm luân.
29. Cùng nhau lạy trước Phật đài. Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
30. Lời vàng vâng lĩnh ý cao. Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai.
31. Trong như tiếng hạc bay qua. Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng.
32. Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Nhẹ nhàng nghiệp trước đền bồi duyên sau.
33. Trông người lại ngẫm đến ta. Tu là cội phúc, tình là dây oan.
34. Kiếp tu xưa ví chưa dày. Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
35. Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi. Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng.
36. Một tường tuyết chở sương che. Lời Sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
37. Chung quanh vẫn đất nước nhà. Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
38. Một lời nói chửa kịp thưa. Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm.
39. Thông minh vốn sẵn tính trời. Mà trong lẽ phải, có người có ta.
40. Hoa cười ngọc thốt đoan trang. Lòng kia giữ được thường thường mãi không?
41. Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra.
42. Còn non còn nước còn dài. Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
43. Gương trong chẳng chút bụi trần. Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
44. Khi hương sớm khi trà trưa. Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
45. Gửi thân được chốn am mây. Dừng chân gạn chút niềm tây gọi là.
46. Trong cơ thanh khí tương tầm. Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.
47. Gìn vàng giữ ngọc cho hay. Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
48. Gửi thân được chốn am mây. Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi.
49. So dần giây vũ giây văn. Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay.
50. Tiếng sen sẽ động giấc hòe. Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
51. Phong sương được vẻ thiên nhiên. Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa.
52. Nạn xưa trút sạch làu làu. Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
53. Được lời như cởi tấm lòng. Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
54. Long lanh đáy nước in trời. Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
55. Tạ lòng lạy trước sân mây. Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
56. Nghe tường ngành ngọn tiêu hao. Giác Duyên đâu bỗng tìm vào tới nơi.
57. Nẻo xa mới tỏ mặt người. Duyên ta mà cũng phúc trời chi không.
58. Giật mình thoắt tỉnh giấc mai. Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.
59. Dẫu rằng vật đổi sao dời. Còn vầng trăng bạc, còn lời nguyền xưa.
60. Những là rày ước mai ao. Dưới dày có đất trên cao có trời.
61. Lấy tình thâm trả nghĩa thâm. Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm.
62. Nghe tin nở mặt nở mày. Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần.
63. Trùng sinh ân nặng biển trời. Tái sinh trần tạ ơn người từ bi.
64. Áo xanh đổi lấy cà sa. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
65. Khen cho con mắt tinh đời. Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
66. Cửa sài vừa ngỏ then hoa. Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
67. Sớm khuya lá bối phướn mây. Đi về này những lối này năm xưa.
68. Gửi thân được chốn am mây. Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.
69. Sẵn Quan Âm Các vườn ta. Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao.
70. Thân ta, ta phải lo âu. Cơ duyên nào đã hết đâu, vội gì?
71. Sư rằng: song chẳng hề chi. Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.
72. Cho hay giọt nước cành dương. Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.
73. Mấy lời tâm phúc ruột rà. Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa.
74. Đã gần chi có điều xa. Tu là cội phúc tình là dây oan.
75. Lòng còn gửi áng mây vàng. Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!
76. Lạ gì thanh khí lẽ hằng. Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi.
77. Nghe tường ngành ngọn tiêu hao. Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
78. Trước sau cho vẹn một lời. Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
79. Thửa công đức ấy ai bằng. Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi?
80. Năm mây bỗng thấy chiếu trời. Nào lời non nước, nào lời sắt son.
81. Sao cho muôn dặm một nhà. Mười lăm năm mới bây giờ là đây!
82. Gió quang mây tạnh thảnh thơi. Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
83. Một lòng chẳng quản mấy công. Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
84. Giật mình thoắt tỉnh giấc mai. Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.
85. Kệ kinh câu cũ thuộc lòng. Tấn Dương được thấy mây rồng có phen.
86. Thấy màu ăn mặc nâu sồng. Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường.
87. Trời đông vừa rạng ngàn dâu. Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.
88. Thiền trà cạn nước hồng mai. Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
89. Gác kinh viện sách đôi nơi. Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng.
90. Được lời như mở tấc son. Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
91. Thương nhau xin nhớ lời nhau. Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
92. Huệ lan sực nức một nhà. Có cây trăm thước có hoa bốn mùa.
93. Chở che đùm bọc thiếu chi. Vườn xuân một thửa để bia muôn đời.
94. Khi gió gác khi trăng sân. Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì?
95. Tình sâu mong trả nghĩa dày. Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
96. Lấy trong ý tứ mà suy. Sao cho thoát khỏi nữ nhi thường tình.
97. Rằng trong ngọc đá vàng thau. Dạy đem pháp bảo sang hầu sư huynh.
98. Khúc đâu đầm ấm dương hòa. Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.
99. Công tư vẹn cả hai bề. Chuyện muôn năm cũ kể chi bây giờ?
100. Gương trong chẳng chút bụi trần. Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao.
101. Trời còn để có hôm nay. Của tin gọi một chút này làm ghi.
102. Trùng sinh ân nặng bể trời. Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao!
103. Sự đời đã tắt lửa lòng. Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
104. Những là sen ngó đào tơ. Mầu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
105. Mùi thiền đã bén muối dưa. Gà vừa gáy sáng, trời vừa rạng đông.
106. Nhớ lời lập một am mây. Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
107. Gửi thân được chốn am mây. Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.
108. Bây giờ tình mới tỏ tình. Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.
109. Chở che đùm bọc thiếu chi. Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
110. Tình xưa ơn trả nghĩa đền. Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông.
111. Bởi lòng tạc đá ghi vàng. Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao.
112. Cửa trời rộng mở đường mây. Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
113. Vội về sửa chốn vườn hoa. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
114. Nạn xưa trút sạch làu làu. Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?
115. Bốn bề bát ngát mênh mông. Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng.
116. Thấy nhau mừng rỡ trăm bề. Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa.
117. Đã nguyền hai chữ đồng tâm. Trước sau trọn vẹn, xa gần ngợi khen.
118. Độ sinh nhờ đức cao dày. Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.
119. Rằng trong tác hợp cơ trời. Mà trong lẽ phải có người có ta!
120. Còn non còn nước còn dài. Dẫu mòn bia đá dám sai tấc lòng.
121. Trong như tiếng hạc bay qua. Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa.
122. Một lòng chẳng quản mấy công. Ở đây cửa Phật là không hẹp gì.
123. Song thu đã khép cánh ngoài. Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
124. Vầng trăng vằng vặc giữa trời. Anh hùng đoán giữa trần ai mới già!
125. Thương sao cho vẹn thì thương. Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh.
126. Mấy lời tâm phúc ruột rà. Tương tri dường ấy mới là tương tri!
127. Đến bây giờ mới thấy đây. Mà lòng đã chắc những ngày một hai.
128. Nỗi mừng biết lấy chi cân. Tuyết sương che chở cho thân cát đằng.
129. Có người khách ở viễn phương. Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
130. Cỏ non xanh tận chân trời. Nhẹ nhàng nghiệp trước đền bồi duyên sau.
131. Những là nấn ná đợi tin. Tỉnh ra mới biết là mình chiêm bao.
132. Gác kinh viện sách đôi nơi. Nào lời non nước, nào lời sắt son.
133. Chút riêng chọn đá thử vàng. Thân này đã dễ mấy lần gặp tiên?
134. Giọt rồng canh đã điểm ba. Có dung kẻ dưới mới là lượng trên.
135. Thương nhau xin nhớ lời nhau. Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.
136. Rằng trong ngọc đá vàng thau. Cười rằng: tri kỷ trước sau mấy người!
137. Chút riêng chọn đá thử vàng. Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu?
138. Tấm thân rày đã nhẹ nhàng. Lòng đây lòng đấy chưa tường hay sao?
139. Cùng trong một tiếng tơ đồng. Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
140. Long lanh đáy nước in trời. Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
141. Hoàng lương chợt tỉnh giấc mai. Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.
142. Lấy tình thâm trả nghĩa thâm. Nước non để chữ tương phùng kiếp sau.
143. Chắc rằng mai trúc lại vầy. Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi.
144. Dưới đèn sẵn bức tiên hoa. Một mầu quan tái bốn mùa gió trăng.
145. Nghĩ đi nghĩ lại quanh co. Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
146. Tình sâu mong trả nghĩa dầy. Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
147. Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi. Tấm riêng riêng những nặng vì nước non.
148. Bấy lâu khăng khít giải đồng. Biển trầm luân lấp cho bằng mới thôi.
149. Khi gió gác khi trăng sân. Hoa xuân đương nhị ngày xuân còn dài.
150. Đêm xuân một giấc mơ màng. Làm chi lỡ nhịp cho đàn ngang cung.
151. Thương vì hạnh trọng vì tài. Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
152. Công tư hai lẽ đều xong. Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
153. Được lời như thế là may. Cành kia chẳng phải cội này mà ra?
154. Thân ta ta phải lo âu. Bỗng đâu mua não chuốc sầu nghĩ nao?
155. Chở che đùm bọc thiếu chi. Năm nay là một, nữa thì năm năm.
156. Phím đàn dìu dặt tay tiên. Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi.
157. Thiện căn ở tại lòng ta. Tương tri dường ấy mới là tương tri.
158. Gương trong chẳng chút bụi trần. Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng.
159. Kệ kinh câu cũ thuộc lòng. Triều dâng hôm sớm, mây lồng trước sau.
160. Một nhà sum hợp sớm trưa. Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm.
161. Bốn bề bát ngát mênh mông. Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi?
162. Đội trời đạp đất ở đời. Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng.
163. Độ sinh nhờ đức cao dày. Cành kia chẳng phải cội này mà ra?
164. Chở che đùm bọc thiếu chi. Tấm riêng riêng những nặng vì nước non.
165. Giật mình thoắt tỉnh giấc mai. Rằng không thì cũng vâng lời rằng không.
166. Lòng riêng riêng những kính yêu. Những điều vàng đá phải điều nói không.
167. Cửa thiền then nhặt lưới mau. Dạy đem pháp bảo sang hầu sư huynh.
168. Cho hay giọt nước cành dương. Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư.
169. Gác kinh viện sách đôi nơi. Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
170. Nâu sồng từ trở màu thiền. Dạn dày cho biết gan liền tướng quân.
171. Tình xưa ân trả nghĩa đền. Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu.
172. Thương sao cho vẹn thì thương. Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.
173. Thấy màu ăn mặc nâu sồng. Ở đây cửa Phật là không hẹp gì.
174. Tàng tàng trời mới bình minh. Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra.
175. Gửi thân được chốn am mây. Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
176. Mai cốt cách tuyết tinh thần. Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng.
177. Sư đà hái thuốc phương xa. Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang.
178. Bẻ lau vạch cỏ tìm đi. Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ.
179. Sự đời đã tắt lửa lòng. Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần.
180. Người sao hiếu nghĩa đủ đường. Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây.
181. Ấy mới gan ấy mới tài. Thong dong nối gót thư trai cùng về.
182. Dịp đâu may mắn lạ dường. Đóa trà mi đã ngậm gương nửa vành.
183. Dưới trăng quyên đã gọi hè. Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
184. Dẫu rằng sông cạn đá mòn. Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang.
185. Gọi là trả chút nghĩa người. Dẫu trong nguy hiểm dám dời ước xưa.
186. Khi nên trời cũng chiều người. Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
187. Còn nhiều hưởng thụ về lâu. Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi.
188. Non quê thuần vược bén mùi. Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông.
189. Vậy nên những chốn thong dong. Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa.
190. Khi ăn ở lúc ra vào. Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình.
191. Bây giờ mới rõ tăm hơi. Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
192. Lầu mai vừa rúc còi sương. Trông ra ác đã ngậm gương non đoài.
193. Xem qua sư mới dạy qua. Ấy là tình nặng ấy là ơn sâu.
194. Lại đây xem lại cho gần. Bóng hoa đầy đất vẻ ngân ngang trời.
195. Chùa đâu trông thấy nẻo xa. Có dung kẻ dưới mới là lượng trên.
196. Ở ăn thì nết cũng hay. Hẳn rằng mai có như vầy cho chăng.
197. Khi ăn ở lúc ra vào. Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
198. Một phen tri kỷ cùng nhau. Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì.
199. Một tay gây dựng cơ đồ. Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
200. Ai ngờ lại họp một nhà. Một thiên tuyệt bút gọi là để sau.
201. Đường đường một đấng anh hào. Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành!
202. Thấy nhau mừng rỡ trăm bề. Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân.
203. Trong tay mười vạn tinh binh. Quy sư, quy Phật tu hành bấy lâu.
204. Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra. Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu?
205. Cửa chiền vừa cữ cuối xuân. Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài.
206. Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi. Tìm hoa quá bước xem người viết kinh.
207. Nghĩ cho khi gác viết kinh. Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.
208. Nghe lời khuyên nhủ thong dong. Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào.
209. Thấy lời thủng thỉnh như chơi. Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân.
210. Gió quang mây tạnh thảnh thơi. Có người đàn việt lên chơi cửa già

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét