28/11/08

Bằng cấp MBA quan trọng hay không? Xu hướng MBA thế kỷ 21

Minh Hà dịch từ Strategy-business.com

Trong một thế giới đòi hỏi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp xác định được những mối quan tâm của tất cả các cổ đông thì chúng ta phải định hình lại việc đào tạo quản lý trong cả thực tiễn lẫn lý thuyết. Thế giới doanh nghiệp cần đào tạo và phát triển kiểu nhà lãnh đạo nào? Trong một thời đại của việc đánh giá cá nhân xuất sắc ngang nhau cùng sự cạnh tranh toàn cầu đang tăng lên thì họ có nên là những người liều lĩnh được đền đáp hoàn toàn xứng đáng trong việc tập trung vào vấn đề quan trọng không? Hoặc, trong sự khuấy động của những vụ scandal đòi hỏi có sự công bằng cá nhân để vượt qua những cạm bẫy trước mắt thì thế hệ mới của các nhà lãnh đạo có nên tập trung vào việc phát triển tinh thần đồng đội và tổ chức nội bộ nhằm gia tăng thêm lợi nhuận cho các cổ đông không? Những câu hỏi này là một mối quan tâm cho bất kỳ nhà lãnh đạo doanh nghiệp có suy nghĩ chín chắn đồng thời trở thành những câu hỏi thiết yếu cho các nhà đào tạo kinh doanh.

Những trường kinh doanh trên thế giới hiện nay đang phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp. Những lời chỉ trích về chất lượng giảng dạy đang càng ngày càng gia tăng. Người ta lên án gay gắt cả về triết lý và phương pháp giảng dạy. Nhiều người than phiền rằng, các trường kinh doanh đều tập trung một cách thái quá vào một khái niệm hẹp về doanh nghiệp hoàn toàn được định hướng bằng sự tối đa hóa lợi nhuận cổ đông ngắn hạn. Họ phàn nàn rằng nghiên cứu ngày càng bị định hướng theo những yêu cầu xem lại những bài giảng lý thuyết suông hơn là theo những yêu cầu của các nhà quản lý; các nhà nghiên cứu thì lại tránh việc tìm hiểu sự lộn xộn của rất nhiều đối tượng ở thế giới thực để thay cho sự hư cấu thật đẹp của những chiến lược nhằm tối ưu một giá trị riêng hoặc một quan điểm. Các phê bình cho biết: Cuối cùng là một thế hệ các nhà quản trị doanh nghiệp (MBA) thiếu mất một khả năng phán đoán về cách quản lý các tập thể trong môi trường đa văn hóa đầy phức tạp của các doanh nghiệp toàn cầu hiện nay, và họ cũng không nhận ra được hướng đi cho doanh nghiệp phù hợp với cơ cấu xã hội ngày càng mở rộng hơn. Được xác định để thể hiện được cả ngôn ngữ của tiếp thị lẫn ngôn ngữ của những môn học lý thuyết, tất thảy các trường kinh doanh thường quá chủ quan khi bỏ qua những thực tiễn đã được chứng minh về sự quản lý hàng ngày ở các tổ chức lớn, đặc biệt là những tổ chức theo những chức năng then chốt như điều hành và nhân sự, những điều luôn được xem như đang thiếu “cơ hội thăng tiến nhanh chóng” hoặc “sự đầu tư bằng tiền mặt” tiềm năng. Và những trường kinh doanh này cũng vừa bỏ qua những phương pháp giáo dục đó, cũng chẳng quan trọng lắm nếu chúng được kiểm tra thật kỹ trong những lĩnh vực khác, những lĩnh vực có thể cho phép các sinh viên có kinh nghiệm và cả sự nỗ lực cùng thời gian xây dựng được những kỹ năng theo một hướng suy nghĩ chín chắn – những kỹ năng như kiểu hướng dẫn đồng sự, kiểm tra các chương trình chỉ dẫn trong một phạm vi an toàn, và có lẽ quan trọng nhất đó là sự phản ứng trước một hành động nhằm chỉ rõ trách nhiệm và chất vấn mục đích lớn hơn của toàn bộ sự nỗ lực đó.



Trong sự phản ứng lại tình trạng hỗn loạn này, một số trường kinh doanh đang phải chuyển sang một hướng mới. Có một chiều hướng mới về mục đích tiếp sức cho ngành đào tạo quản lý, và những thay đổi gần đây minh chứng rằng những trường đó, các khoa của họ, và cả những sinh viên của trường đều đang bắt đầu nắm lấy cơ hội này. Những nỗ lực của họ cùng với công sức, sự nhận thức rõ ràng, tinh thần sáng tạo, và quan trọng nhất là sự cam kết xã hội ngày càng lớn hơn đang từng bước vượt lên. Ví dụ như khi Thomas Robertson được bầu làm hiệu trưởng của trường Wharton (trường kinh doanh của đại học Pennsylvania) năm 2007, ông đã tuyên bố rõ rằng mục tiêu của ông là để làm cho trường này trở thành một “nguồn lực tốt trên thế giới”. Nhờ việc xem lại một số trong nhiều ví dụ hợp lý của sự chuyển đổi mới nổi này mà chúng ta có thể thoáng thấy được tương lai của việc đào tạo kinh doanh, những kiểu nhà lãnh đạo đang được phát triển cùng những kiểu doanh nghiệp mà chúng ta có thể mong chờ thấy được những nhà lãnh đạo đó xây dựng trong tương lai. (Hầu hết các ví dụ ở đây đều ở nước Mỹ, nơi hiện nay đang phát sinh khá nhiều, nhưng những thay đổi tương tự như vậy cũng đang có các trường kinh doanh ở Châu Âu, và một số các trường kinh doanh Châu Á đang phát triển cũng đang tiến hành thử nghiệm bằng những thực tiễn kết hợp với các chương trình giảng dạy mới của mình.)



Gốc rễ của vấn đề



Các trường kinh doanh thường vẫn công bố rằng chính họ đang chủ yếu đào tạo nền tảng cho những người cạnh tranh chiến thắng, những người có thể trụ vững dưới áp lực lớn và làm được điều để tồn tại trong một hoàn cảnh kinh doanh khắc nghiệt. Họ vừa thể hiện đáng kể khả năng của mình để đưa ra những người tốt nghiệp có thể làm việc dưới những điều kiện cạnh tranh liên tục cao cùng áp lực thời gian khắc nghiệt, được trang bị bằng một khả năng về hành động và niềm tin dứt khoát trong phân tích từng điểm một của mình đối với bất cứ vấn đề nào.



Các nhà lãnh đạo thiên về lý thuyết đều ủng hộ hệ thống tuyển chọn vòng cung thông dụng, điều đó chắc chắn rằng chỉ một tỷ lệ phần trăm rất ít các sinh viên trong mỗi lớp đạt mức A, còn lại hầu hết đạt mức C, và một số thì bị loại, điều này cũng giống như việc đào tạo dành riêng cho các hệ thống xếp hạng và loại bỏ đang chờ họ ở nhiều công ty. Các trường kinh doanh đều cố tình đẩy các sinh viên của mình vào những tình huống mà có nhiều thứ để làm hơn là họ có thể hoàn thành một cách tự tin nhằm mô phỏng những kiểu áp lức mà họ sẽ phải đối mặt trong sự nghiệp kinh doanh của mình; nhằm dạy cho họ làm việc khôn ngoan, để biết được khi nào thì “tốt đủ” thì lại tốt hơn “hoàn hảo”, để biết dành ưu tiên, để biết đại diện và để biết tập trung vào cái họ thực hiện hoặc họ có thể biết hơn là đi sâu vào cái mà họ có thể cần để hiểu. Kim Clark, hiệu trưởng chính thức của trường kinh doanh Harvard, đã miêu tả điều này như một mô hình “mô phỏng chuyến bay” của giáo dục kinh doanh. Chắc chắn rằng những nét tiêu biểu mà mô hình này cổ vũ là có giá trị, thậm chí là cần thiết trong nhiều tình huống, nhưng một sự nhấn mạnh quá sức đối với chúng vẫn thường bị coi là một sự đào tạo MBA tồi.



Một số những lợi ích lớn nhất về kinh nghiệm của các trường đào tạo kinh doanh trên thực tế đều được bắt nguồn từ những cách mà theo đó nó không giống với môi trường các sinh viên sẽ tham gia sau khi được đào tạo. Do không đủ mô phỏng những thực tế của những thách thức kinh doanh chỉ thông qua những tình huống mô phỏng hay có thật nên các trường đều muốn xây dựng kiến thức, các kỹ năng và cả những phản xạ tự nhiên một cách thận trọng, tỉ mỉ mà không thể được học trong thế giới công việc, như thế các sinh viên cuối cùng có thể đối phó lại được những thách thức đó bằng kỹ năng và sự hiểu biết nhiều hơn mà họ có được hoàn toàn trong quá trình đào tạo. Vì thế mà các sinh viên nên tập trung học với óc phán đoán thật sâu, cân nhắc vấn đề thật kỹ, chứ đừng bằng một loạt những lập trường có sẵn. Và có lẽ quan trọng nhất, đó là các trường kinh doanh nên tự mình chủ động khảo sát mục đích của doanh nghiệp. Đào tạo kinh doanh không nên chỉ phát triển sự thích ứng với rủi ro hoặc khả năng xoay sở với những cái khác của các sinh viên mà nên tập trung vào những mục đích hướng tới cái mà các MBA sau khi tốt nghiệp sẽ ứng dụng những kỹ năng đó để giải quyết vấn đề.



Ngay như giáo sư Rakesh Khurana của trường kinh doanh Harvard đưa ra trong cuốn From Higher Aims to Hired Hands: The Social Transformation of American Business Schools and the Unfulfilled Promise of Management as a Profession của ông do trường đại học Princeton ấn hành năm 2007 thì theo phương diện lịch sử, mục tiêu trọng tâm đối với các học viện chấp nhận MBA hàng đầu đều là để “chuyên nghiệp hóa” quản lý kinh doanh thành một nghề cụ thể - một công việc đòi hỏi cả một sự nhận thức tổng quan về con người với những kiến thức cần thiết cũng như một sự cam kết với một mục đích lớn hơn vì sự tốt đẹp của cộng đồng. Mà chính Khurana và những người khác đều cho rằng điều này là một sứ mệnh để từ đó các trường kinh doanh phải chuyển sự tập trung của họ vào đó thay vì một tầm nhìn thiển cận hạn hẹp về kinh doanh và cả về đào tạo kinh doanh.



Một vài xu hướng đang nổi lên trong việc giáo dục kinh doanh giữ vững những hưởng ứng trước tầm quan trọng của vài thập kỷ gần đây, và tất cả chúng đều đòi hỏi việc phân loại thực tiễn theo ý nghĩa của mục đích lớn hơn hoặc sâu sắc hơn. Nói chung, những phương pháp này đều đòi hỏi việc thay đổi từ cái có thể được gọi là một mô hình “các nguyên tắc cộng thêm các phân tích” của việc đào tạo quản lý tới một tiêu điểm “các nguyên lý cộng thêm sự thực thi”.



Mô hình các nguyên tắc cộng thêm các phân tích dạy rằng các nguyên tắc bao trùm hành vi tập thể - dù bị áp đặt bằng luật lệ, bằng các đối thủ cạnh tranh, hoặc bằng sự quản lý sở hữu của ai đó đi chăng nữa – thì đơn giản vẫn là những đè nén cần phải vượt qua; các công cụ phân tích thể hiện những cách để làm việc trong phạm vi hoặc liên quan tới bất kỳ những nguyên tắc nào theo cách của bạn để đạt được mục đích chiến thắng cuộc chơi đầy cạnh tranh nhanh nhất nhất. Mô hình này nhấn mạnh tính cạnh tranh không thuộc về con người mà theo đó các nhà quản lý sẽ phải chỉ liên quan mật thiết với ranh giới về pháp luật và đạo đức trong phạm vi có thể - thậm chí phải vượt qua nó khi họ mong chờ họ sẽ không bị bắt. Điều này khích lệ các sinh viên thể hiện được học thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith (học thuyết nói rằng những hành động được thúc đẩy hoàn toàn cá nhân kết hợp theo những cách bất ngờ để nâng cao chất lượng cộng đồng được nhiều hơn so với những cách giải quyết theo bài bản đã từng được áp dụng), có nghĩa rằng trong bất kỳ tình huống nào được đưa ra thì họ không phải xem xét những hàm ý lớn hơn về các lựa chọn của mình bởi vì thị trường sẽ làm điều đó.



Mô hình các nguyên lý cộng thêm sự thực thi về đào tạo quản lý thì lại ngược lại, nó bắt đầu bằng những câu hỏi cơ bản về việc tại sao một doanh nghiệp tồn tại được và nó xây dựng và triển khai được khả năng của mình ra sao. Mô hình này dạy về những lý do dành cho các nguyên tắc – các nguyên lý cơ bản của chúng và quá trình phát triển đằng sau sự tạo nên chúng – đồng thời cũng đưa ra thách thức và cơ hội để thực hành việc ra quyết định trong việc đáp ứng được mục đích mà các nguyên tắc được tạo ra để đạt được nó. Mô hình này tập trung vào sự chấp nhận về trách nhiệm nghề nghiệp của cá nhân đối với một sự giao phó lớn hơn đối với sự tốt đẹp của cộng đồng. Trong mô hình này, như giáo sư Khurana giải thích thì sự lãnh đạo thành công là một vấn đề thuộc về sự hiểu biết tập thể và cá nhân, sự đánh giá cùng sự tin tưởng được hun đúc bằng một sự nhận thức mà chính bàn tay vô hình thực hiện chỉ trong những điều kiện tối ưu cũng như nó không thể được dựa vào như một cái ổ an toàn hoặc tồi tệ hơn là một cái thẻ tự do ra vào nơi nguy hiểm.



Trong mô hình các nguyên lý cộng thêm sự thực thi, việc đào tạo cung cấp những cơ hội mà thực tiễn được lặp lại. Các sinh viên, thay vì học quản lý được tình trạng khó khăn theo luật và đảm nhận khả năng “làm ra những con số” của họ nhằm ổn định lại bất kỳ tình trạng lộn xộn ngày càng lớn nào tạo nên trong thế giới này thì lại có cơ hội để xem xét một tầm nhìn rộng hơn về mục đích và vai trò của họ như những nhà lãnh đạo doanh nghiệp và thực hành việc nắm giữ trách nhiệm vì nó. Phương pháp mới này đặt ra những câu hỏi quan trọng như: Liệu chúng ta có thể quản lý cái gì theo một cách đầy đủ kỹ năng và có trách nhiệm như vậy? Cái đó sẽ trông giống cái gì? Chính những câu hỏi này đã giúp con người nhận thức được giá trị của lợi nhuận và tài sản không chỉ như một số thứ gì đó cần tích lũy mà là một số thứ cần được dùng tron việc xây dựng những doanh nghiệp mới hoặc để giải quyết các vấn đề mới.



Còn ngay cả giáo sư David Garvin của trường kinh doanh Harvard đã lên tiếng rằng: các nhà giáo dục đang nắm được lợi thế của sự an toàn tương đối khi trong lớp học nhằm cổ vũ cho loại thử nghiệm này. Tại trường học, tiền đặt cọc bao giờ cũng thấp hơn trong công việc, vì thế đây là thời gian thích hợp cho các sinh viên tiếp cận được với các rủi ro, thử nghiệm cùng với những trạng thái thay đổi của các vấn đề, đi sâu được vào chi tiết hơn để hỏi những câu hỏi “không thể hỏi được” và thậm chí là “để thay đổi suy nghĩ của họ về cộng đồng” mà không phải lo sợ về cái vẻ yếu kém bề ngoài cũng như hạ bớt cái tôi của họ.



Mặc dù các áp lực về thời gian vẫn tồn tại đối với sinh viên học MBA, nhưng tại lớp học đã tạo cho họ cơ hội để kéo dài được thời gian ra – để phá bỏ đi một trạng thái, để học được giá trị của sự phê phán cùng sức mạnh sáng tạo của việc thay đổi hẳn hướng tập trung của một con người khỏi một tiêu điểm được định nghĩa hết sức hẹp trong một thời điểm, cũng như để xây dựng nên khả năng phản ứng nhanh bằng việc thực hành quan trọng về những thành phần của việc ra quyết định và thực thi theo phương pháp quay chậm. Nó giống như một người tập bơi phải khởi động cơ thể trước khi lao xuống nước và đạt được tốc độ của mình, vì thế mà các nhà quản lý theo đào tạo có thể thực hành lĩnh vực của mình trong một lớp học để phát triển được khả năng ghi nhớ cần thiết cho sự đánh giá được tốt hơn.



Ví dụ, cơ hội sử dụng thời gian một cách có sắp xếp và thực hành những kỹ năng quản lý với những cơ hội cho “làm lại” chính là nền tảng của một phương pháp giảng dạy đổi mới đối với việc ra quyết định dựa trên giá trị được gọi là “đưa lại tiếng nói cho các giá trị”. Được Học viện Aspen và Trường quản lý Yale tài trợ, phương pháp này đang trở nên thành công trên hơn hai mươi tư học viện toàn cầu. Phương pháp này liên kết sự thực thi với sự cam kết và sự tự nhận thức cá nhân. Được rút ra dựa trên những kinh nghiệm thực tế về cả những thực tiễn trong kinh doanh lẫn những kỹ thuật xã hội về nghiên cứu quản lý, phương pháp đưa lại tiếng nói cho các giá trị đã lấp đầy được khoảng trống quan trọng và lâu đời trong việc đào tạo kinh doanh bằng việc mở rộng định nghĩa về những gì có ý nghĩa để dạy về những giá trị và các đạo đức kinh doanh. Hơn nữa, việc tập trung vào phân tích nguyên tắc theo phương pháp giảng dạy mới này đáp ứng được những câu hỏi như: Nếu bạn là một nhà lãnh đạo doanh nghiệp thì bạn sẽ thực hiện điều gì dựa trên các giá trị của mình? Bạn sẽ nói và làm điều gì? Làm thế nào bạn có thể đạt được hiệu quả tốt nhất? Và chính phương pháp mới này cung cấp những cơ hội để xây dựng được sự lãnh đạo dựa trên các giá trị bằng cách đưa ra cho các sinh viên những cơ hội để thực hành khớp với các ý tưởng và những kế hoạch hành động của họ trước các bạn của mình.



Cổ đông và tính bền vững



Trong suốt thời gian tôi từng được tham gia giáo dục quản lý, các tiêu chuẩn từng bị bôi xấu là “chỉ mang tính sách vở” về kiến thức quản lý; có nghĩa là sự phân tách giả tạo và thiếu hiệu quả về kế toán, điều hành, tiếp thị và cả tài chính. Cũng như thế trong hàng chục năm, có một cách gọi dành được sự chú ý lớn hơn đối với triển vọng cổ đông đa dạng, cả trong lẫn ngoài doanh nghiệp, trong việc ra quyết định kinh doanh. Và sự quan tâm ngày càng cao vào tính bền vững kinh doanh nhận thấy rằng tuổi đời ngắn ngủi của nhiều công ty cũng như thiệt hại của chúng làm ảnh hưởng tới các hệ sinh thái học và hệ thống xã hội. Nhưng những mối quan tâm đó có ít tác dụng, trừ phi tới bây giờ, nó mới trở thành cấu trúc tổng thể của phương pháp giảng dạy MBA thông thường.



Tuy nhiên, vài năm trở lại đây, một làn sóng về việc xem lại và cải cách phương pháp giảng dạy đã lan rộng trong các trường kinh doanh, và điều đó tới nay dường như vẫn đang diễn ra. Nhờ theo hướng đó mà một số nỗ lực đáng kể đã xác định được những mối quan tâm về cái chỉ mang tính sách vở, sự thiếu hụt triển vọng lớn hơn, và cụ thể là những quan điểm và quyền lợi của đa số các cổ đông bao gồm các nhà đầu tư, những người lao động và cả cộng đồng rộng lớn đối với các quá trình ra quyết định và những cơ cấu tổ chức mà họ dùng để dạy cho các sinh viên của mình. Ý tưởng về tính bền vững, ban đầu đã được kết hợp với môi trường tự nhiên, còn bây giờ lại được liên kết với những ảnh hưởng xã hội cùng những chủ đề tổng quan lớn hơn chẳng hạn như: việc cho vay quá ít ở những khu vực đang phát triển, việc duy trì những mối quan hệ nghiêm túc với những cộng động mà nhờ đó một công ty xác định được những điều kiện thuận lợi của mình, hay việc quan tâm hết sức trong việc quản lý thông tin cá nhân các khách hàng của một công ty. Tính bền vững đã trở thành một hướng phổ dụng để cơ cấu tổ chức được một sự cam kết quản lý trong thời gian dài, cho phép việc bàn luận nhiều hơn về những rủi ro được kết hợp với tầm quan trọng của quản lý theo từng quý (thời gian ngắn hạn thông thường hiện nay). Những tranh luận về tính bền vững cũng đưa ra một cơ hội rõ ràng thể hiện một mục đích hợp tác vượt xa hơn cả việc tối đa hóa lợi nhuận cổ đông.



Trường quản lý Yale vừa mới thay đổi lại chương trình giảng dạy chính của trường thành tám khóa học về “Triển vọng của tổ chức”. Bốn khóa trong số đó bàn về quan điểm bên ngoài gồm: Nhà đầu tư, Khách hàng, Xã hội và đất nước, cùng Đối thủ cạnh tranh. Còn bốn khóa kia lại nói về triển vọng bên trong gồm: Các nhà đổi mới, Kỹ thuật điều hành, Người lao động, cùng Tài nguyên và quản lý các quỹ. Nhờ việc tổ chức chương trình giảng dạy theo cách này mà Yale vừa thách thức các khoa của mình vượt qua các rào cản trong những lĩnh vực nghiên cứu của nó. Chính hiệu trưởng trường, Joel Podolny đã từng giải thích rằng: “Chúng tôi không hoàn toàn bỏ các môn học, mà chúng tôi đang đặt lại chúng vào một hoàn cảnh mới. Nếu bạn nói chuyện với các nhà đầu tư, họ sẽ kể cho bạn thấy rằng để trở thành một đầu tư thì bạn phải biết về tài chính. Nhưng họ cũng sẽ kể cho bạn biết rằng đầu tư còn có nghĩa rằng bạn bắt đầu có đủ khả năng phân tích được xem tương lai lợi nhuận sẽ từ đâu tới. Vâng, và để hiểu được lợi nhuận tương lai, bạn buộc phải hiểu được chiến lược và các tổ chức cũng như phải có khả năng phân tích được sự lãnh đạo. Cuối cùng, khi bạn nhận ra được triển vọng của nhà đầu tư thì chúng tôi cũng phải có được chương trình giảng dạy mới mà có thể giải đáp được cho bạn những câu hỏi như: ‘Các nhóm nhà đầu tư khác nhau là gì? Họ đang tối ưu điều gì? Họ cần thông tin nào? Một nhà quản lý cần biết những điều gì để thống nhất được những ý kiến đóng góp khác nhau?’. Và khi bạn tham gia khóa học theo môn học chuyên ngành tài chính, bạn có thể bao quát được những câu hỏi đó một cách dễ dàng, mặc dù chúng hoàn toàn không liên quan tới tài chính, mà thực tế chúng lại nảy sinh trong hoàn cảnh một nhà quản lý đang cố gắng để dàn xếp được với một nhà đầu tư.”



Việc nắm bắt được triển vọng của nhà đầu tư theo cách bằng sắc thái này khiến nó có thể xác định được những câu hỏi về việc làm tối đa hóa được giá trị cổ đông mà có thể bị mất đi trong chương trình giảng dạy cũ: những câu hỏi về sự đa dạng hóa các mục tiêu của các cổ đông; yêu cầu thông tin minh bạch và chính xác của thị trường; các vấn đề về thông tin không phù hợp; các yếu tố bên ngoài; và cả những cơ cấu tổ chức dẫn tới việc xung đột về thời gian; v.v... Những câu hỏi này có những hàm ý quan trọng đối với doanh nghiệp, và các trường bây giờ đều có một bối cảnh, ngôn ngữ, cùng những cách nhìn thực tế đối với việc phát sinh các vấn đề trong chương trình giảng dạy chính của mình.



Một trong những khía cạnh có ích lợi nhất của cấu trúc mới này đó là nó buộc các khoa của mình phải liên hệ được với môn học khi đưa ra một vấn đề trước lớp, thể hiện được sự hòa hợp của các ý tưởng cùng sự thể hiện qua các lĩnh vực. Việc dàn trải này nhằm tìm ra sự tương đồng giúp cho các thành viên của khoa xây dựng được nghiên cứu của mình theo những cách đủ khả năng cho phép các sinh viên nhận thấy được những hàm ý thực tiễn. Ví dụ, một bản tìm hiểu về việc nắm giữ các mẫu những nhóm nhà đầu tư khác nhau có thể dường như “không bền vững” đối với một sinh viên tài chính khi được phân công viết một bài luận về việc đánh giá đồng nghiệp, tuy nhiên, điều này lại vô cùng thích hợp với trường hợp viết một bài luận về việc một giám đốc điều hành đang nắm giữ một công ty áp dụng chiến lược liên kết với cộng đồng. Vậy vị giám đốc điều hành đó làm thế nào để chỉ cho nhà đầu tư thấy được con đường thu hút các nhóm cổ đông, những người sẽ mua cổ phần trong một chiến lược kinh doanh dài hạn? Và ngay khi họ học được cách thể hiện lôi cuốn nhu cầu đối với nguồn vốn dài hơi thì các sinh viên cũng đạt được một kỹ năng thiết yếu đối với các nhà lãnh đạo trong môi trường kinh doanh toàn cầu ngày nay: khả năng giao thiệp một cách hiệu quả thông qua một loạt những chức năng, vị trí và cả triển vọng khác nhau.



Đối với chương trình MBA tại trường đại học Washington State University (WSU), “Lãnh đạo tập trung vào cổ đông vì sự thành công của doanh nghiệp được bền vững”, được đưa ra mùa thu năm 2007 cho thấy các nhà thiết chương trình giảng dạy này đã mất ba năm ròng rã để tiếp xúc và nói chuyện với các nam học sinh – sinh viên, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, các sinh viên và các khoa để thu thập dữ liệu, kiểm tra giả thuyết và đánh giá tiến trình của mình. Không như Yale, trường WSU vẫn duy trì hầu hết các khóa học MBA truyền thống của mình, tuy nhiên, trường cũng tiến hành xét duyệt giáo trình từng khóa học nhằm kết hợp chặt chẽ với các quan điểm của các cổ đông của một tổ chức cũng như để xây dựng dựa trên ý tưởng rằng cốt lõi về mục đích của bất kỳ công ty nào cũng chính là tính bền vững lâu dài, điều mà chính trường này miêu tả như “quy trình cân bằng những mong đợi của cổ đông với kế hoạch chiến lược nhằm đạt được sự pha trộn tài nguyên tối ưu cho sự thực hiện hoạt động lâu dài.”



Trong một thế giới đòi hỏi các nhà lãnh đạo doanh nghiệp xác định được những mối quan tâm của tất cả các cổ đông thì chúng ta phải định hình lại việc đào tạo quản lý trong cả thực tiễn lẫn lý thuyết. Thế giới doanh nghiệp cần đào tạo và phát triển kiểu nhà lãnh đạo nào? Trong một thời đại của việc đánh giá cá nhân xuất sắc ngang nhau cùng sự cạnh tranh toàn cầu đang tăng lên thì họ có nên là những người liều lĩnh được đền đáp hoàn toàn xứng đáng trong việc tập trung vào vấn đề quan trọng không? Hoặc, trong sự khuấy động của những vụ scandal đòi hỏi có sự công bằng cá nhân để vượt qua những cạm bẫy trước mắt thì thế hệ mới của các nhà lãnh đạo có nên tập trung vào việc phát triển tinh thần đồng đội và tổ chức nội bộ nhằm gia tăng thêm lợi nhuận cho các cổ đông không? Những câu hỏi này là một mối quan tâm cho bất kỳ nhà lãnh đạo doanh nghiệp có suy nghĩ chín chắn đồng thời trở thành những câu hỏi thiết yếu cho các nhà đào tạo kinh doanh.

Các khoa của WSU đã được chỉ định rằng bất kỳ nỗ lực nào để thống nhất được định hướng cổ đông thành thực tế kinh doanh cũng đòi hỏi một phương pháp luận đầy trách nhiệm, có liên quan và chặt chẽ trong việc quản lý những quyết định thỏa hiệp không thể tránh khỏi thường phát sinh một khi một công ty vượt xa mục đích riêng rẽ về sự tối đa hóa giá trị cổ đông. Vì thế nên họ đã phát triển những mục tiêu học tập tập trung vào cổ đông cho từng khóa học được yêu cầu trong chương trình giảng dạy tại WSU. Những mục tiêu này bao gồm việc xác định các nhu cầu tài nguyên của một tổ chức cùng những cổ đông cung cấp hoặc kiểm soát những tài nguyên đó; những tác động tiềm ẩn của tổ chức đối với các cổ đông đó; và quan trọng nhất đó là một mô hình trong việc hiểu được làm thế nào để chiến lược của tổ chức đó gây ảnh hưởng được tới các mối quan hệ cổ đông, và hơn nữa là tính sẵn có tài nguyên. Trong mỗi khóa học, các sinh viên trình bày rõ ràng về những cách mà một chiến lược hợp tác có thể thành công trên thị trường cũng như vẫn thỏa mãn được các nhu cầu về một loạt những cong người quan trọng khác nhau bao gồm như: các nhà đầu tư, những người lao động và các khách hàng một cách chính xác bởi vì chiến lược đó luôn thừa nhận những nhóm người này như những tài nguyên.



Chẳng hạn như hiện nay, khóa học kế toán tập trung vào việc thiết kế các hệ thống đánh giá quản lý tổ chức, nhấn mạnh rằng điều mà một công ty chọn để làm tiêu chuẩn – trong trường hợp này đó chính là những đóng góp của cổ đông và những yêu cầu mà công ty cần phải theo đuổi – nhằm xác định được khả năng của nó để thực hiện việc dự đoán một cách chính xác. Còn trong một khóa học mới, Việc quản lý các mối quan hệ đối tác về chuỗi giá trị, thì lại nhấn mạnh việc xây dựng và quản lý các mối quan hệ lợi ích tương tác và lâu dài với các đối tác, các nhà cung cấp và các nhà phân phối cùng chung lợi ích.



Trường WSU cũng vừa tạo ra một khóa học được yêu cầu giới thiệu về: Các cổ đông, Các tài nguyên và cả Lợi thế cạnh tranh nhằm trình bày cơ cấu tổ chức môn học dựa trên những tài nguyên đó, cũng như một khóa học được yêu cầu mang tên Các đạo đức kinh doanh và những cổ đông quần chúng nhằm đáp ứng như một mô hình kinh doanh ảo đối với toàn bộ chương trình giảng dạy. Cuối cùng, ngay cả một ví dụ về việc đánh giá tầm quan trọng dựa trên sự thực thi cũng như các nguyên tắc cũng được WSU tạo thành một khóa học về đàm phán và cam kết cổ đông nhằm tập trung vào cách các nhà quản lý giao thiệp và điều hành một chiến lược cổ đông bền vững một khi họ vừa thiết lập được nó.



Tuy nhiên, cả Yale và Washington State đều không đơn độc. Georgia Tech thuộc trường quản lý Presidio ở San Francisco, Học viện Bainbridge Graduate ở bang Washington, trường kinh doanh của đại học Duquesne ở Pittsburgh, trường đại học Santa Fe, và cả Học viện công nghệ Monterrey ở Mexico đều đang cơ cấu lại chương trình giảng dạy của mình xoay quanh đề tài về tính bền vững, định nghĩa mục đích kinh doanh một cách rộng hơn, với sự quan tâm rõ ràng đối với ảnh hưởng của nó đến xã hội rộng hơn. Việc cơ cấu lại này có thể cần nhiều khuôn dạng chẳng hạn như việc cổ vũ sự phát triển của những khóa học không bắt buộc mới hoặc thiết kế lại một chương trình được bắt nguồn theo một cam kết về thực tiễn kinh doanh bền vững.



Các trường khác cũng đang sử dụng khái niệm của tính bền vững như một cách nhìn thực tế mới thông qua đó để xem xét một loạt những môn học MBA truyền thống khác nhau. Trường kinh doanh Columbia và trường kinh doanh thuộc trường đại học Stellenbosch ở Nam Phi, cả hai đều đang áp dụng khái niệm này với tài chính và điều hành, chỉ ra cho các sinh viên những công cụ và tiêu chuẩn đánh giá mới nhất đang được sử dụng trong tài chính và các ngành bảo hiểm nhằm đánh giá được những rủi ro tiềm ẩn phát sinh từ ảnh hưởng xã hội hoặc môi trường của các khoản đầu tư. Trường đại học kinh doanh Daniels thuộc trường đại học Denver từng tạo ra chương trình Việc tạo nên những doanh nghiệp bền vững, một trong sáu khóa học tuân theo việc thiết kế lại chương trình giảng dạy của trường. Từng khóa học này tập trung vào việc thống nhất được sự chặt chẽ của trí tuệ với kinh nghiệm thực tiễn thông qua vô số môn học. Tính bền vững cũng trở thành một màn bảo vệc cho nhiều khóa học về đầu tư tự doanh, dự án và cả sự cạnh tranh về kế hoạch kinh doanh ngay tại những trường như đại học Virginia và đại Colorado.



Cuối cùng, tính bền vững thường là một cơ chế dành cho việc tinh lọc vô số triển vọng trong phạm vi trường kinh doanh và trong việc tạo ra những cuộc bàn luận thông qua các trường và các nghề nghiệp. Ví dụ như tại đại học Cornell, dưới sự lãnh đạo của chuyên gia Stuart Hart (tác giả của cuốn Capitalism at the Crossroads: The Unlimited Business Opportunities in Solving the World’s Most Difficult Problems, do trường Wharton xuất bản năm 2005), trung tâm vì doanh nghiệp toàn cầu bền vững đang tài trợ cho một chương trình mới nhằm cổ vũ các doanh nghiệp phát triển, thể chế hóa và mang đến cho thị trường những nền công nghệ sạch, dễ làm mới và không độc hại. Các khóa học và những dự án nghiên cứu có liên quan đều đúc rút dựa trên các trường kinh doanh, kỹ thuật, quản lý khách sạn và những ngành nghề có liên quan của Cornell.



Nhiều chương trình trong số đó còn có một tầm quan trọng về thực nghiệm; các khoa kiểm tra các phương pháp mới cùng các sinh viên, còn các sinh viên lại được thực hiện theo các nguyên liệu ít “đóng gói”, bừa bộn và thực tế hơn. Ví dụ như hàng loạt các tình huống thực nghiệm của Yale được gọi là Triển vọng lãnh đạo thống nhất đã đưa đến cho các sinh viên một cơ hội áp dụng hiểu biết của họ về tính bền vững cùng chiến lược đối với những quyết định hợp tác thực sự. Một kinh nghiệm “tình huống sống” đã cho phép các sinh viên theo dõi được cuộc đấu giá cổ phiếu cá nhân của Blackstone Group nhằm mua lại nhóm đầu tư bất động sản Equity Office Properties Trust. Điều này tạo nên một cuộc đấu giá sôi động với những cuộc đấu giá đầy cạnh tranh cùng những mâu thuẫn của ban quản trị đã thực sự diễn ra như một tình huống vừa mới được dạy xong. Các sinh đã chỉ có dữ liệu thô tại thời điểm chuyển nhượng của họ như: tin tức đấu giá, thông tin đầy đủ về tài chính hiện tại, v.v... Chỉ có các khóa học về triển vọng mới cho phép các sinh viên nắm bắt được một phương pháp đa nguyên tắc đối với một cổ đông hoặc cử tri, còn những tình huống thống nhất này lại cho phép họ nắm bắt được một phương pháp đa cổ đông hoặc cử tri đối với một tình huống quản lý cụ thể.



Sức mạnh của số một



Để chuyển sang được một mô hình các nguyên lý cộng thêm sự thực thi, đào tạo kinh doanh phải dạy cho mọi người nắm vững và thể hện được các nguyên tắc trừu tượng, cũng như phát triển được óc phán đoán thiên bẩm có mục đích theo nguyên tắc dựa trên thực tiễn. Điều này giúp giải thích việc nâng cao tầm quan trọng trong nhiều trường dựa vào sự tự nhận thức của từng cá nhân và dựa vào việc xây dựng các kỹ năng xã hội và nắm bắt tâm lý. Xu hướng này phản ánh nhu cầu thị trường đối với một kinh nghiệm giáo dục đã được thay đổi nhằm phù hợp và khích lệ được khả năng của từng cá nhân sinh viên cũng như gia tăng ảnh hưởng các trường kinh doanh về các ngành khoa học nặng và nhẹ bao gồm các lĩnh vực khác nhau như sinh học tiến hóa, sinh hóa thần kinh, kinh tế học hành vi, tâm lý xã hội, khoa học thực nghiệm, tâm lý kể chuyện và cả ngôn ngữ học.

Sự phức tạp của những động cơ thúc đẩy con người, thành kiến cùng cách thức giải quyết theo kinh nghiệm trong việc đưa ra quyết hay khả năng theo kiến thức và chuyên môn của quá trình hoạt động đang trở thành những cân nhắc quan trọng trong các khóa học làm phát sinh những chủ đề mà chúng ta thường thấy chỉ có trong các chương trình giảng dạy về đạo đức. Các sinh viên ngày nay đều có cơ hội để thể hiện được cả cách tiếp cận đầy cảm xúc và hiểu biết trước một hoàn cảnh cũng như các phương pháp giúp họ có thể cộng tác hoặc tạo được ảnh hưởng tới người khác. Sự nhận thức của họ về những nhân tố này có thể định hình được tầm nhìn của họ cũng như xác định được họ có thể thực thi các quyết định của mình hiệu quả như thế nào.



Những chủ đề được mở rộng này được xác định theo những cách hoàn toàn khác nhau. Chẳng hạn như trường quản lý Kellogg thuộc đại học Northwestern đưa ra một kinh nghiệm làm việc cả tuần theo “sự liên hệ của căn bệnh”, còn các sinh viên trong suốt thời gian đó lại có cơ hội để phân tích và thực hành những phản ứng của mình trước những xung đột cá cước cao như thể họ đang bàn về thông tin đấu giá. Các tình huống xảy ra trong cả khóa học kéo dài năm ngày, với thông tin mới và cả những rắc rối mới được thêm vào từng ngày. Các sinh viên bắt đầu thấy không chỉ các loại thông tin và phân tích là cần thiết để xác định các bối cảnh ngay cả sự làm giả sản phẩm hoặc những sự cố nhà máy, mà họ còn có cơ hội kiểm tra những giả định của mình cũng như củng cố các kỹ năng giao tiếp và việc ra quyết định của mình. Còn theo giáo sư Adam Galinsky của trường Kellogg thì trong khóa học khác mang tên Sự Lãnh đạo dựa trên Các Giá trị của Kellogg, các sinh viên được tham gia nghiên cứu về việc con người có xu hướng suy nghĩ như thế nào về các mâu thuẫn giá trị, cũng như học được làm thế nào “để nắm bắt được các xác nhận giá trị khác nhau của những cổ đông khác nhau cũng như thống nhất chúng lại thành một tầm nhìn chặt chẽ.”



Trung tâm thống nhất suy nghĩ Marcel Desautels của trường quản lý Rotman thuộc đại Toronto đang tập trung vào việc phát triển một chương trình giảng dạy nhằm rút ra nghiên cứu có liên quan chặt chẽ mới nhất để cổ vũ các sinh viên trở nên nhận thức và rèn luyện kiểm soát toàn diện các tiến trình tranh luận của họ được nhiều hơn. Một khóa học mới được yêu cầu tại trường đại học Stanford có tên là Suy nghĩ Phân tích Cơ bản được xây dựng với mục đích kết hợp khả năng từ những môn học có liên quan của trường, hay một khóa học mới của Yale mang tên Cơ cấu tổ chức Vấn đề Cá nhân, đều là những ví dụ của những chương trình giảng dạy mới hướng tới việc kiểm tra các cách mà theo đó các thói quen suy nghĩ có thể xác định hay hạn chế các tùy chọn của con người. Phương pháp này được dự định dạy cho các nhà lãnh đạo tương lai nhằm chất vấn chính sự hẹp hòi của họ hoặc đôi khi là những giả thiết và các cơ cấu tổ chức sai lệch; mở rộng khả năng hiểu được người khác khi các quan điểm, sự ưu tiên và cả nền tảng đều khác nhau; cũng như để tăng cường khả năng tìm ra được nguyên do lớn nhất của vấn đề của họ.



Ở nhiều trường, kể cả khi các sinh viên đặt ra các mục tiêu học tập hay con đường sự nghiệp cho riêng mình thì họ cũng vẫn có cơ hội thay đổi theo kinh nghiệm nghiên cứu của mình. Các trường đang xây dựng các kinh nghiệm đánh giá bản thân cho sinh viên của họ ngày càng cao, cho phép các sinh viên hiểu được suy nghĩ, việc ra quyết định và cả những xu hướng giữa con người với nhau của chính mình. Các bài tập liên quan bao gồm những khảo sát đánh giá bản thân và những cuộc đánh giá 360 độ, tất cả đều xác định phong cách lãnh đạo, phong cách học hỏi và khả năng làm việc nhóm. Các sinh viên sau đó có thể lựa chọn nghiên cứu của mình để tiến hành dựa trên những thế mạnh của họ cũng như xác định được các giới hạn của mình thông qua các môn học và các hội thảo xây dựng kỹ năng. Trường đại học Chicago từng sử dụng những công cụ như vậy một thời gian, Stanford thì đang triển khai tới toàn bộ sinh viên như phần không thể thiếu của việc soạn lại chương trình giảng dạy hiện nay, còn tại trường kinh doanh Austin’s McCombs thuộc đại học Texas lại đang lên kế hoạch đưa ra một nỗ lực đánh giá bản thân của chính mình. Như vậy, cốt lõi của xu hướng này chính là một sự cố gắng đưa ra những thấu hiểu về kinh nghiệm nghiên cứu trực tiếp phù hợp và hữu ích đối với các cá thể sinh viên, cũng như giúp họ nắm bắt được quyền kiểm soát các xu hướng hành động và tranh luận của riêng mình, đồng thời khuyến khích họ theo đuổi cả mục đích của tổ chức lẫn mục đích cá nhân của mình một cách hiệu quả hơn.



Thực nghiệm, thực hành và đổi mới xã hội



Kinh nghiệm thực tiễn trong đổi mới xã hội có thể xây dựng một khả năng cá nhân hành động hoàn toàn có kỹ năng trong rất nhiều hoàn cảnh phức tạp khác nhau, đặt biệt là trong những hoàn cảnh ngày càng trở nên phổ biến mà theo đó kinh doanh phải xây dựng nên những liên minh cùng khu vực xã hội và các tổ chức phi chính phủ (NonGovernmental Organization - NGO). Hơn nữa, theo như lý giải của Anne-Marie Slaughter, hiệu trưởng của trường giao tiếp cộng đồng và quốc tế Woodrow Wilson thuộc đại học Princeton thì việc chuyển đổi các công việc giữa khu vực tư nhân, khu vực xã hội hay khu vực phi lợi nhuận sẽ giúp các nhà quản lý tốt nhất sẽ thường xuyên tìm thấy chính mình trong suốt sự nghiệp của họ. Theo tinh thần đó, nhiều trường ngày nay đang định hướng cho các sinh viên của họ hướng về các dự án cho thế giới thực thuê “đầu tư tự doanh xã hội”, dùng những thực tiễn kinh doanh để giải quyết cả các vấn đề về kinh doanh lẫn xã hội mở rộng. Các sinh viên của họ tìm thấy được những con đường mở rộng ảnh hưởng rõ ràng của kinh doanh bằng việc đưa các mục đích xã hội vào quản lý vì lợi nhuận truyền thống, bằng cách áp dụng các kỹ năng kinh doanh đối với quản lý phi lợi nhuận hay NGO, và bằng việc phát triển các mô hình mới về sự lai tạo, các tập đoàn mạo hiểm xã hội. Ví dụ về những sự lai tạo này có thể gồm các công ty sản xuất đổi mới môi trường hoặc các ngân hàng phát triển cộng đồng như ngân hàng Grameen. Những tổ chức như vậy tập trung rõ ràng vào cả các lĩnh vực xã hội quan trọng và tài chính, thu lại được lợi nhuận trong khi vẫn đáp ứng được các mục đích từ thiện hoặc xã hội.



Trái ngược với mô hình “một mất một còn” truyền thống về đào tạo thực hành, mô hình đặt các sinh viên vào áp lực cạnh tranh cao độ với mục đích được xác định hoàn toàn hẹp về việc đánh bại đối thủ trong hoàn cảnh phạm vi lớp học với một nỗ lực thay đổi, những kinh nghiệm đều có các mục đích thực hành, được xác định rộng hơn bao trùm cả các ảnh hưởng xã hội rõ ràng lẫn thành tựu kinh doanh. Chúng đưa các sinh viên theo hướng tiếp xúc trực tiếp với những người thực sự liên quan tới doanh nghiệp theo những khu vực, cộng đồng và văn hóa khác nhau. Hoàn cảnh này được xem như một học hỏi thực nghiệm, với các nhà cố vấn và một tinh thần hợp tác.



Một trường hợp đặc biệt đó chính là Global Health Initiative (GHI) tại đại học Northwestern. Năm 2005, trường đại học này đã đạt được một cố gắng hợp tác về cả công nghiệp, phi lợi nhuận – đáng kể nhất là sự thành lập ra quỹ Bill và Melinda Gates – cùng các khoa từ ba trường chuyên nghiệp để phát triển và kiểm tra điều mà những người đứng đầu GHI gọi là “một mô hình nghiên cứu và phát triển mới về thế giới đang phát triển”. Họ giải thích rằng “những khu vực chủ yếu cần các công nghệ liên quan tới sức khỏe khác nhau thường không có thị trường tiềm năng để thúc đẩy tiến hành nghiên cứu và phát triển được yêu cầu thích ứng với các công nghệ đang có, ngay cả chúng có thể thành công trước những thực tế về các thách thức cơ sở hạ tầng và nhân sự có kỹ năng bị hạn chế.”, vì thế mà GHI từng trình bày thách thức này như “một vấn đề thị trường hết sức đơn giản”.



Trường đại học này cũng vừa bỏ tiền ra thành lập một công ty công nghệ sinh học nhỏ, phi lợi nhuận. Để xác định được nhu cầu của các nước đang phát triển, các sinh viên tốt nghiệp trường kỹ thuật Robert R. McCormick tại Northwestern đang làm việc tại đây nhằm thay đổi quyền sở hữu trí tuệ bị các đối tác hợp tác của GHI chi phối bao gồm các phòng thí nghiệm Abbott và Tổ chức cải tiến y học Inverness, còn các sinh viên MBA của trường quản lý Kellogg làm việc tại đó để hiểu được sự năng động của thị trường, các yêu cầu của chính phủ và cả những thách thức được phân bố trong dân chúng. Cuối cùng, các nhà nghiên cứu từ trường y khoa Feinberg của Northwestern sẽ hướng dẫn các thử nghiệm chuyên môn dựa trên những tìm kiếm của hai nhóm đầu tiên này. Giáo sư Daniel Diermeier của Kellogg giải thích: “”Điều này mang lại cho các sinh viên kinh nghiệm làm việc trong một môi trường được trang bị hoàn toàn các thiết bị y học. Và họ sẽ phải tiến hành làm mọi việc từ nghiên cứu thị trường ban đầu tới làm việc cùng đội ngũ kỹ thuật để giải quyết vô số vấn đề thực thi, tất cả đều trong một môi trường được bảo vệ và dựa theo những dự án đầy tiềm năng để mang lại nhiều điều tốt đẹp cho thế giới này.”



GHI của Northwestern chỉ một trong nhiều thực nghiệm thực hành nhằm nắm giữ sự hứa hẹn đưa ra cho các sinh viên cơ hội để thực hành các kỹ năng thực thi và ra quyết định của họ cũng như để nhận thấy bản thân họ đang có một ảnh hưởng vượt ra khỏi mục tiêu ban đầu. Kiểu kinh nghiệm này có thể đang trở nên hấp dẫn bởi thực tế, một sự xem lại những nỗ lực về chương trình giảng dạy trong báo cáo thường niên tại Wharton năm 2004 cho thấy rằng những sáng kiến vè đầu tư tự doanh và thực hành đều được định hướng và trở nên yêu thích bởi hầu hết các sinh viên ngành kinh doanh.



Thế hệ tiếp theo



Điều này có thể quá sớm để khẳng định được ảnh hưởng đầy đủ của sự chuyển đổi đào tạo quản lý, nhưng việc đánh giá từ đầu ra của sinh viên cho thấy một số điều đang trở nên rõ ràng hơn.

Trước hết, các thách thức này tất cả đều là hưởng ứng theo nhu cầu của sinh viên, các trường học, các khoa học và cả những người đã đi làm. Thật là khó phóng đại tầm quan trọng của nhu cầu sinh viên, thế nhưng các sinh viện đang làm trong các hiệp hội đều tập trung vào vai trò rõ ràng của kinh doanh trong xã hội, giống như chương trình Doanh nghiệp Xã hội của Columbia, đều đang phát triển nhanh chóng. Chủ nhiệm khoa Ray Horton lưu ý rằng ngay khi ông nhận thấy một sự gia tăng về số sinh viên tự xác định được bản thân mình có liên quan tới các vấn đề xã hội thì cũng là lúc xu hướng truyền đạt trong các buổi học trên lớp cũng bắt đầu được thay đổi. Hiệp hội MBA Net Impact – “một mạng lưới toàn cầu của các nhà lãnh đạo đang thay đổi thế giới thông qua kinh doanh” – đã thu hút toàn thời gian của 2000 sinh viên hiện nay tới các buổi hội thảo thường niên gần đây tại đại học Duke. Vì thế mà họ đã quyết định mở rộng mối quan hệ thành viên bao gồm các trường đào tạo MBA trong một nỗ lực nhằm xây dựng tính liên tục và gia tăng ảnh hưởng của hiệp hội sau khi các thành viên đó tốt nghiệp khóa học.



Cũng định hướng sự chuyển đổi này là một mối quan hệ đối tác giữa khoa với các lợi ích nghiên cứu mới và những người đã đi làm bằng một mong muốn cho các ý tưởng sáng tạo và những cách thức mới đánh giá họ. Mong muốn này đã được cổ vũ bằng một thị trường đang ngày càng tăng sự hưởng ứng đối với các vấn đề về môi trường và một khu vực chung đang được thúc đẩy bằng những giới hạn của những thập kỷ trước nhằm phát triển các cơ chế điều chỉnh mới. Thế nên, ngày càng nhiều các khoa thành viên cổ vũ và thậm chí đòi hỏi các dự án của sinh viên phải tập trung và các vấn đề về môi trường và xã hội. Kellie McElhaney của trường kinh doanh Haas thuộc Berkeley đã giới thiệu ngay một khóa học tại trường đại học Michigan và sau đó là Berkeley khi bà chuyển về đây để điều hành trung tâm vì kinh doanh có trách nhiệm.



Các sinh viên tham gia các chương trình giảng dạy mới này không chỉ được trang bị về kiến thức và đào tạo thực hành mà còn nâng cao được bản thân để làm được những việc khác nhau. Chẳng hạn như một báo cáo gần đây từ học viện Bainbridge Graduate – một chương trình MBA tiên phong tập trung vào tính ổn định – đã liệt kê ra vô số các sinh viên bán thời gian hiện đang điều hành các chương trình mang tính ổn định cho chính các ông chủ của mình. Những người chủ này bao gồm một hãng phát triển và kỹ thuật đường sắt, một công ty dầu lửa lớn, một nhà sản xuất máy vi tính hàng đầu và cả một chuỗi bán lẻ hàng chuyên biệt lớn.



Và những sinh viên tốt nghiệp MBA theo những chương trình giảng dạy mới này đều nói về việc xác định những vấn đề cơ bản của kinh doanh ngày nay; việc cân bằng giữa các sức ép ngắn hạn đối chọi với các mục tiêu dài hạn, việc xác định mối đe dọa về thay đổi khí hậu, và việc tìm những hướng đi để đảm bảo cho một hệ thống chăm sóc sức khỏe thiếu bền vững. Như vậy, rõ ràng rằng họ đã nhận thấy được một nền giáo dục hỗ trợ cho mong muốn phá vỡ các giới hạn của họ cũng như đưa sự định hướng của họ tới sự thành công cá nhân bằng một hy vọng xây dựng một thế giới tốt hơn thông qua kinh doanh.



Sự chuyển sang mô hình các nguyên lý cộng thêm sự thực thi trong giáo dục kinh doanh có thể dẫn tới một sự bùng nổ các nhà đầu tư tự doanh, những người luôn mong muốn giải quyết các vấn đề xã hội – ví dụ như sự thiếu nước ngọt ở Ấn Độ hoặc các nhu cầu về năng lượng ở Châu Phi – theo một cách mà mang lại cả hiệu quả lẫn lợi nhuận. Nó có thể dẫn tới một đoàn quân các giám đốc điều hành và các giám đốc tài chính làm việc cùng nhau để tạo ra những báo cáo đầy sức thuyết phục về chiến lược dài hạn nhằm thu hút sự ủy quyền của các nhà đầu tư dựa trên giá trị, những người thích mua và nắm giữ hơn là mua và bỏ chạy. Hoặc nó có thể có nghĩa rằng một thế hệ các nhà quản lý tiếp theo đưa ra những vấn đề về sự cân bằng xã hội hoặc sự thấu hiểu môi trường của những cách thường dùng để tiến hành mọi việc, cũng như những người đưa ra những vấn đề về một hình mẫu có tính xây dựng, mở rộng, hiểu biết và thực tiễn – những người có thể không hề nao núng trong mô hình hoạt động của mình bởi bản thân họ không thể bị đe dọa. Và điều tốt nhất với họ, những nhà lãnh đạo doanh nghiệp mới có nền tảng và được đào tạo theo một khuôn mẫu toàn diện hơn những nhà chuyên nghiệp đi trước, là họ có thể dám đương đầu với thử thách nhiều hơn bởi mục đích của họ lớn hơn và họ có đủ khả năng để đáp ứng được những thử thách đó.



Bạn nên biết gì về mức lương mới của mình



Thế giới đang đòi hỏi những điều mới mẻ từ các nhà quản trị doanh nghiệp và cả những sinh viên MBA đang học bằng việc đưa ra những nhu cầu mới từ trường học của họ và cả những người chủ tương lai. Điều đó có nghĩa rằng các nhân tài MBA là một thành phần quan trọng của chiến lược thu hút nhân tài ngay tại chính công ty của mình, điều chúng tôi đang muốn bàn đền trực tiếp lúc này. Đó cũng chính là sự rõ ràng trong các khảo sát về các sinh viên MBA.



Trong những năm gần đây, một tấm bằng MBA từ một trường đào tạo hàng đầu thường được xem như một tấm vé cho một nấc thang sự nghiệp: một cách để gia nhập vào một công ty chuyên nghiệp toàn cầu hoặc trở thành một tiến trình leo thang lên tới vị trí tập đoàn của tổ chức Fortune 500, trong khi đang mở rộng mạng lưới kinh doanh của mình. Giáo sư Rakesh Khurana của trường kinh doanh Harvard đã viết trong cuốn sách From Higher Aims to Hired Hands: The Social Transformation of American Business Schools and the Unfulfilled Promise of Management as a Profession (Đại học Princeton University ấn hành năm 2007) của ông rằng các trường kinh doanh thu hút các sinh viên bằng việc giải thích trước tiên và quan trọng rằng họ “cung cấp sự tiếp cận tới các công việc trả lương cao, nơi các sinh viên trong các lĩnh vực chẳng hạn như ngân hàng đầu tư, quỹ tài trợ hay vốn chủ sở hữu, những lĩnh vực mà các phần thưởng về kinh tế luôn dành sẵn cho các tài năng MBA mới, những người được chào mời vào những vị trí quản lý truyền thống.“ Nhưng quan điểm này có thể không đầy đủ, bởi để chắc chắn, các sinh viên MBA giỏi nhất thường mong chờ được trả mức lương rất cao. Mà như vậy thì họ cũng sẽ chấp nhận tìm công việc thử thách, nhiều ích lợi từ Day One; họ khát khao được tham gia các dự án sẽ phát huy được kiến thức của họ cùng những người cố vấn cùng đội có định hướng và cổ vũ tính sáng tạo. Những sinh viên đó nói rằng “Tôi muốn được trải nghiệm. Tôi đã đầu tư hai năm vào học MBA, và tôi không muốn quay trở lại cùng kiểu công việc mà tôi đã làm trước đây.” Và như vậy mà có nhiều sinh viên dù có bị hạn chế vẫn tham gia một tổ chức không vì lợi nhuận trong sự nghiệp của mình.



Nhưng quan trọng nhất, các sinh viên trường kinh doanh đều muốn tạo được ngay một ảnh hưởng mới. Điều này không nhất thiết là vì cảm thông bởi ngay cả việc cung cấp các sinh viên tốt nghiệp MBA trên toàn thế giới không ngừng phát triển (với rất nhiều trường quản lý đang được mở ở Châu Á và con số lớn mạnh về các sinh viên MBA chính thức và đã tốt nghiệp có khả năng) thì các sinh viên mới đều đang tìm kiếm một vinh quang. Các MBA ngày nay đều cần nhận ra được bản thân mình cũng như phải biết rằng chỉ riêng các kỹ năng suông thôi không chưa đủ. Để điều hành được trong thế giới phức tạp về quản lý toàn cầu, họ sẽ được mong đợi quan sát được sự thay đổi, tổng hợp được thông tin khác nhau, theo kịp các giải pháp để giải quyết các vấn đề và phải chứng minh được không chỉ sự sắc sảo về trí tuệ mà còn cả hiểu biết về cảm xúc.



Các thành viên thuộc thế thế hệ này thời nay trong trường kinh doanh có một số lợi thế tự nhiên hơn những người trước họ. Việc có được sự phát triển của các công nghệ hợp tác chẳng hạn như tin nhắn khẩn cấp, mạng lưới xã hội và tin nhắn văn bản khiến họ tiến hơn đến các nền văn hóa dựa vào nhóm làm việc. Tuy nhiên, họ có thể cần phát triển các quan điểm khác một cách thận trọng hơn nữa. Họ có thể thấu hiểu cảm xúc với đồng nghiệp và các báo cáo trực tiếp không? Họ có thể làm việc với mọi người từ rất nhiều nền tảng khác nhau không? Họ có thể giao thiệp được theo nhiều ngôn ngữ và vẫn giữ cho không lúng túng trong những hoàn cảnh khác nhau không? Họ có thể đưa ra phản hồi có tính chất xây dựng không? Họ có thể nắm bắt được sự phản hồi ngay lập tức từ những người khác không?



Nếu câu trả lời với những câu hỏi này là không thì các MBA nên biết rằng họ sẽ chẳng được hỗ trợ ở nhiều tổ chức – bởi vì các nhà quản lý cấp cao mà họ làm việc cho có thể không có những tiêu chuẩn này hoặc bởi vì mô hình tổ chức đó có thể không cho phép những kết hợp mức đầu vào phát triển những kỹ năng lớn hơn này. Hoặc rõ ràng rằng họ không thể nhận thấy loại hình đào này trong một lớp học của một trường kinh doanh nổi tiếng nào. Và như vậy, các sinh viên giỏi nhất sẽ tìm đến các trường và những công ty đáp ứng được thời gian về thực hành quản lý, những nơi cho phép họ đào tạo theo một số giới hạn về kinh doanh, phát triển kỹ năng lãnh đạo, làm việc trên toàn thế giới, và xây dựng những mối quan hệ tồn tại suốt đời. Các công ty nắm bắt được nhu cầu này một cách nghiêm túc – dàn trải và nuôi dưỡng những nhân công mới đến của mình – sẽ có được sự tiếp cận rất lớn đối với những sinh viên tốt nghiệp trường kinh doanh danh tiếng nhất và tốt nhất, và đặc biệt là với những người có tố chất lãnh đạo tiềm ẩn giỏi nhất.

Chia sẻ trên Cyvee

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét